Thứ Ba, 11 tháng 7, 2017
Mô hình hợp tác xã tiêu dùng
Các bạn làm mới trên mô hình tưởng như không mới!
Vấn đề các bạn gắn kết, kiểm soát tạo niềm tin bền vững.
Chúng ta ngày nào cũng mua bán ăn uống, tại sao không tổ chức bán mua tốt hơn, tin tưởng hơn?
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH HỢP TÁC XÃ DỊCH VỤ MÔI TRƯỜNG
PHÁT
TRIỂN MÔ HÌNH HỢP TÁC XÃ DỊCH VỤ MÔI TRƯỜNG
Môi
trường ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của mỗi người. Làm dịch vụ môi
trường là việc chung có phân chia công đoạn việc làm, thu nhập, hưởng
thụ, góp vốn của cá nhân, tổ chức. Trong tương lai, chỉ tiêu môi trường sẽ hiện
lên ngày càng lớn trong GDP các nền kinh tế, đây là bước phục hồi và phát triển
giá trị môi trường của quá khứ trên 200 năm kể từ khi nhân loại tăng trưởng
kinh tế bằng công nghiệp!
Cần bao
nhiêu tiền để duy trì xanh sạch đẹp ở một vùng? ai được hưởng phải đóng tiền,
ai vi phạm phải trả và phạt tiền, người làm môi trường sạch có thu nhập (một số
quốc gia đã đánh “thuế xanh”, cấp “chứng chỉ xanh” cho sản phẩm và dịch vụ,
thành lập cảnh sát môi trường).
Chính
sách và hạ tầng cơ bản về môi trường thuộc đầu tư Chính phủ, các biện pháp hoạt
động môi trường ở vi mô thuộc tự quản của cộng đồng, tuy nhiên phân định gianh
giới này chưa rõ nên xảy ra nhiều tranh chấp về môi trường. Ở Trung Quốc, mỗi
năm thiệt hại do ô nhiễm môi trường đến 200 tỉ USD, từ năm 2003, cơ quan quản
lý môi trường nhận được 1,148 triệu vụ khiếu kiện qua đường dây nóng. Ở Hà Nội,
ước tính thiệt hại kinh tế do ô nhiễm không khí gây ra khoảng 1 tỷ đồng/ngày,
chưa tính đến thiệt hại đối với nông nghiệp và cây xanh.
Cần
bao nhiêu việc, người và chi phí bảo vệ môi trường là con số tính được. Nhiều
tổ chức tham gia hoạt động môi trường, HTX dịch vụ môi trường hoạt động theo
Luật Hợp tác xã năm 2003, Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 và các văn bản
hướng dẫn là một định hướng xã hội hoá, cộng đồng hoá điều kiện sống, làm
việc của mỗi người góp phần vào phát triển bền vững.
1-
Tổng quan về HTX và tác động qua lại giữa hoạt động của HTX và môi trường
1.1.
Số liệu cơ bản về HTX
Trước
hết phải điểm đến các tổ hợp tác, một hình thức kinh tế tập thể của các nhóm
trong cộng đồng bên cạnh HTX và các loại hình doanh nghiệp. Đến 30/6/2007, cả
nước có 320 000 tổ hợp tác, tăng 32,6% so với năm 2001, tỷ trọng trong
ngành nông nghiệp chiếm 33,38%; thuỷ sản :3,85%; công nghiệp -tiểu thủ công nghiệp
: 12,74%; thương mại, dịch vụ : 12,74%; tín dụng: 22,48%; điện nước-xây dựng
: 2,74%, các tổ dịch vụ cộng đồng trong đó có tổ hợp tác môi trường:
12,42%. Các tỉnh, thành phố có nhiều tổ hợp tác là Bắc Giang, Lạng Sơn,
Thanh Hoá, Đắc Lắc, Bạc Liêu, Trà Vinh, Cần Thơ,...tổng số tổ hợp tác ở phía
Nam lớn hơn phía Bắc.
Các tổ
hợp tác hình thành theo địa bàn dân cư có nhu cầu hợp tác sản xuất kinh doanh,
trợ vốn, các tổ viên có mối liên hệ tình làng, nghĩa xóm, cùng sở thích, tự
nguyện góp vốn, góp sức bầu ra tổ trưởng, thư ký (kế toán), có quy định nội bộ,
hợp tác có thời hạn theo vụ việc hoặc ổn định lâu dài; có thông báo với UBND
cấp xã, một số có chứng thực để thuận lợi khi giao dịch với khách hàng ở
ngoài địa phương. Tổ hợp tác trọng chữ tín, chữ tình trong quan hệ kinh tế. Các
tổ gắn với các đoàn thể như cựu chiến binh, phụ nữ, thanh niên, hội nghề
nghiệp, các chương trình dự án quốc gia xoá đói, giảm nghèo, xây dựng giao
thông nông thôn, chương trình tín dụng nhỏ,…hình thành các tổ chuyên làm một, một
số khâu dịch vụ sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, vận tải, chung chia
chi phí và kết quả do tổ thực hiện, giúp cho mỗi hộ thành viên tăng thêm việc
làm, thu nhập, giảm thiểu rủi ro; các tổ tín dụng nhỏ cho vay từ 200000 đồng
không phụ thuộc giờ hành chính, các thủ tục vay đơn giản theo mẫu quy định.
Đến tháng
6/2007, cả nước có 17.599 HTX, 39 liên hiệp HTX, trong đó có 8.535 HTX nông
nghiệp, 470 HTX thủy sản, 2.354 HTX tiểu thủ công nghiệp, 2.678 HTX dịch vụ
điện, 1.107 HTX giao thông vận tải, 668 HTX xây dựng, 651 HTX thương mại - dịch
vụ, 942 Quỹ tín dụng nhân dân, 76 HTX môi trường (đến đầu năm 2008 có
134 HTX môi trường) và 118 các loại hình khác ; trong tổng số HTX của cả nước
có gần 700 HTX của cựu chiến binh, hơn 200 HTX thanh niên. Thực hiện Luật Hợp
tác xã năm 2003, đến nay các HTX cũ cơ bản đã được chuyển đổi theo các quy định
của Luật; các HTX yếu kém tồn tại hình thức, nhiều năm không hoạt động, không
có khả năng củng cố đã được giải thể; nhiều HTX mới được thành lập. Điều tra
1.244 HTX (cuối năm 2006) thuộc tất cả các ngành nghề cho thấy 87,1% đã có lãi.
2.1.Những
điểm đen môi trường là đối tượng hoạt động của HTX
Trong
sản xuất nông nghiệp:
Đi
ngược từ sản phẩm nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi) chúng ta nhận biết nhiều
phản ứng từ phía người tiêu dùng cùng người sản xuất. Nhận biết qua một vài số
liệu sau:
Bệnh
từ thực phẩm: Khuyến cáo người tiêu dùng lựa chọn thực phẩm sạch,
nhưng quá trình từ “trang trại đến bàn ăn” dài về thời gian, không rõ xuất xứ,
qua nhiều công đoạn mà người tiêu dùng đành “phó thác” thậm chí “cầu may”.
Ngộ độc thực phẩm báo động đỏ, thống kê chưa
đầy đủ từ năm 2000-2006 có 1358 vụ, với 34.411 người mắc và 379 người chết. Đây
là những vụ có số đông người ở các nhà ăn tập thể, đình đám, còn nhiều vụ đơn
lẻ không được thống kê. Nếu thống kê đạt được 70% thực tế thì số vụ và số người
mắc sẽ lên tới 2000 vụ, 500 000 người. Di hại của thực phẩm ô nhiễm và thói
quen ăn uống là nguyên nhân làm cho mỗi năm có khoảng 50000 người mắc bệnh ung
thư (chiếm 33% tổng số người mắc bệnh này). Hiện nay xuất hiện một số thực phẩm
biến đổi gien, có những ý kiến khác nhau về tác hại gián tiếp, trực tiếp.
Thiệt hại từ thực phẩm ô nhiễm: Người
tiêu dùng chịu nhiều thiệt hại so với số liệu thống kê, người sản xuất kinh
doanh cũng gánh chịu tổn thất lớn khi phải tiêu hủy sản phẩm để bảo đảm an toàn
cho cộng đồng; bị bên nhập khẩu từ chối vì một hai lô hàng, tạo cớ để để đối
thủ cạnh tranh chiếm thị trường. Tổn thất về dịch bệnh như cúm gia cầm, bệnh
gia súc gây thiệt hại đến số hàng đơn vị % GDP của nền kinh tế, đồng thời tạo
cơ hội cho đối thủ cạnh tranh lấn vào thị trường nội đia, nhiều doanh nghiệp
nước ngoài đã kiếm đến cả triệu USD trong 3 tháng, khi đưa thực phẩm sạch chiếm
vùng lãnh thổ có dịch bệnh ở Châu Phi. Người sản xuất, chế biến, buôn bán bị
suy giảm thương hiệu, mất khách hàng, phí tổn bồi thường tăng, ảnh hưởng xấu
đến những nông sản khác trong vùng, vật tư nguyên liệu liên quan trong quy
trình sản xuất, làm xấu hình ảnh của một vùng lãnh thổ rộng lớn, giảm lượng du
khách.
Có nhiều nguyên nhân:Chúng ta hình dung quy trình từ
sản xuất, sơ chế vận chuyển - chế biến công nghiệp, tồn kho- lưu thông, tồn kho
-mua, bảo quản, chế biến ở nhà bếp- lên bàn ăn là một quy trình dài với nhiều
công đoạn mà bất kỳ công đoạn nào cũng chịu tác động của công nghệ, môi trường,
ý thức, thói quen xấu gây ra hậu quả nghiêm trọng đến tính mạng, uy tín nhà sản
xuất, kiện tụng; đối thủ cạnh tranh lợi dụng hạ uy tín sản phẩm với những
nguyên nhân và tác hại chưa rõ ràng.
- Từ
phía canh tác, chúng ta đáng lo ngại về chất lượng đầu vào của trồng trọt và
chăn nuôi như chất đất, nguồn nước, không khí (phân bố cụm khu công nghiệp xen
đậm vào vùng sản xuất nông nghiệp theo địa giới hành chính ảnh hưởng xấu đến
môi trường hệ sinh thái), phân bón, chất kích thích tăng trưởng, thuốc bảo vệ
thực vật, thuốc thú y; quy trình canh tác, thu hoạch, sơ chế không bảo đảm
những tiêu chuẩn quy định thì sản phẩm bị ô nhiễm ngay từ đầu nguồn mà việc xử
lý sau thu hoạch không thể khắc phục hết. Những số liệu cảnh báo: Hàng năm ở ta
sử dụng khoảng 10 triệu tấn hóa chất thuộc 500 loại khác nhau cho bảo vệ thực
vật và sản xuất công nghiệp trong đó có 25% không xác định được chính xác thành
phần; số người kinh doanh thuốc bảo vệ thực vật không có bằng cấp chuyên môn
(chiếm tới 86,7% năm 2000), số lớn điểm bán lẻ không giấy phép, không đủ điều
kiện như kho bảo quản, tủ quầy góp vào nguyên nhân gây ra ngộ độc hóa chất bảo
vệ thực vật chiếm đến 30% số ca ngộ độc chữa trị ở bệnh viện Bạch Mai hàng năm.
Thói
quen canh tác, thu hoạch và bảo quản sản phẩm lạm dụng hoá chất, đặc biệt là
chất bảo quản bán trôi nổi đến mức người sản xuất không dám sử dụng chính những
sản phẩm của mình là thái độ phải lên án. (ông Phan Thế Ruệ, nguyên Thứ trưởng
Bộ Thương mại lo sợ khi ông để trái cam đến 45 ngày vẫn tươi!). Điều kiện canh
tác phân tán nhỏ lẻ chiếm đến 70% các cơ sở sản xuất nông nghiệp cũng là nguyên
nhân gây ra ô nhiễm nguồn thực phẩm, mầm dịch bệnh gia cầm, gia súc, bệnh phát
tán nhanh (ước tính cả nước có 8 triệu hộ chăn nuôi nhưng chỉ có 5% số hộ có
chuồng trại đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn), việc sử dụng chất hữu cơ như phân
tươi vào cây trồng, vật nuôi gieo rắc ô nhiễm thực phẩm và nguồn nước, nhiều
giếng ngầm sâu đến 400 mét vẫn bị nhiễm khuẩn!
Mỗi năm
chúng ta nhập khẩu trên 1 tỷ USD nguyên liệu làm thức ăn gia súc, trong đó có
bột xương, bột thịt và huyết động vật chiếm giá trị lớn, kiểm nghiệm đã phát
hiện ra nhiều lô hàng có xuất xứ từ lãnh thổ có bệnh bò điên, do thiếu cơ sở
xét nghiệm nên mẫu xét nghiệm bị hạn chế, doanh nghiệp nhập khẩu, nhà sản xuất
thức ăn, người chăn nuôi lo lắng; việc kiểm soát hoóc môn tăng trọng vật nuôi,
chất kích thích tăng trưởng cây trồng cũng gặp không ít khó khăn.
- Chế
biến phân tán : Sản xuất phân tán, tập quán tiêu dùng tự giết mổ, gần 100% các
cơ sở giết mổ tư nhân bố trí không hợp vệ sinh, quy trình đơn giản gây ô nhiễm
thực phẩm và môi trường; tỷ lệ 8% gia súc giết mổ bị cơ quan Thú y Hà Nội phát
hiện nhiễm bệnh trong 4 năm, trong đó có 5 % con gia súc chết không rõ nguyên
nhân. Các cơ sở giết mổ tập trung bố trí gần nơi dân cư, thiếu hệ thống xử lý
chất thải tác động xấu đến hệ sinh thái. Mặt hàng thuỷ sản bị ô nhiễm từ nuôi
trồng, thuỷ sản chết hàng loạt, sản phẩm thu hoạch có dư lượng kháng sinh vượt
mức, khi lưu thông một số hàng đông lạnh và hàng khô lại bị tẩm hoá chất độc
hại (đông lạnh bằng đạm urêa, tẩm thuốc thú y vào hàng khô)
Công
nghệ chế biến thực phẩm đã và đang áp dụng những thành tựu khoa học như chiếu
xạ diệt khuẩn, sử dụng ô-dôn làm sạch tươi thực phẩm nhưng không dễ loại trừ triệt
để, thực phẩm nhiễm dư hóa chất mà khách hàng nhập khẩu khuyến cáo, từ chối.
Các nhà sản xuất lạm dụng hóa chất khi chế biến đang là mối lo ngại như vụ nước
tương nhiễm chất gây ung thư vừa qua.
-Khâu
lưu thông : Vận chuyển, bao gói, bảo quản, bố trí kho quầy, cách trao hàng, vệ
sinh quầy hàng, nơi bày bán, thái độ đối với hàng quá đát, hư hỏng thiếu kiểm
soát… là nguyên nhân làm sản phẩm không sạch vào người tiêu dùng.
- Tập
quán của người tiêu dùng tự giết mổ ăn sống, tái, gỏi…đặc biệt là việc chế biến
ở các bếp ăn tập thể, các nhà hàng nhỏ, đình đám, hội hè không chuyên nghiệp,
thiếu cơ chế kiểm soát, chịu trách nhiệm cũng là nguyên nhân thường xuyên gây
ra ngộ độc thực phẩm.
Thực tế
này đòi hỏi các HTX phải tổ chức nền sản xuất nông nghiệp sạch, những HTX rau sạch có thương
hiệu đã thực sự chiếm thị trường, các trang trại bảo đảm qy trình sản xuất luôn
luôn có khách hàng bao tiêu,…
Sản
xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp-làng nghề
Cho đến
nay, công nghệ sản xuất của đa số các HTX, các hộ gia đình thuộc nhóm thấp
nhất, nguồn gốc công nghệ tự chế, mua lại từ các doanh nghiệp đầu tư đổi mới
công nghệ, số công nghệ hiện đại chiếm tỷ lệ rất thấp, nhận biết này nhìn nhận
từ giá trị tài sản và đầu tư mới của các HTX tiểu thủ công nghiệp. Công nghệ
lạc hậu nguy cơ gây ô nhiễm cao nhưng không phải tất cả công nghệ truyền thống
gây ô nhiễm.
Ô nhiễm
môi trường ở các làng nghê: Cả nước có khoảng 2000 làng nghề, phố nghề phân bố
ở 56 tỉnh, thành phố tạo việc làm cho hơn hai triệu người, đạt kim ngạch xuất
khẩu gần 1 tỷ USD là một hướng đi đúng nhưng phát triển bền vững cần xử lý tốt
vấn đề môi trường, trước hết là thay đổi công nghệ, tự nguyện đóng góp hình
thành tổ chức xử lý môi trường.
Kết quả
điều tra của đề tài KC 08-09 cho kết quả: 100 % làng nghề điều tra bị ô nhiễm
môi trường, ví dụ làng nghề chế biến nông sản, thực phẩm có không khí nhiễm
bụi, SO2, H2S gấp nhiều lần tiêu chuẩn cho phép; làng nghề nhuộm thải nước
nhiễm bẩn cao 3-8 lần cho phép, làng nghề tiểu thủ công nghiệp nhiễm bụi, hơi
dung môi lớn hơn 10-15 cho phép.
Những
địa chỉ ô nhiễm được cảnh báo: Làng sơn mài Hạ Thái, Thường Tín, Hà Tây; Làng
giấy Phong Khê, làng tái chế sắt Đa Hội (Bắc Ninh); làng giết mổ gia súc Phúc
Lâm, làng nấu rượu Vân Hà (Bắc Giang); đặc biệt là làng tái chế chì Đông Mai
(Hưng Yên) gây ô nhiễm đất,nguồn nước đến 32-64 lần cho phép,bụi chì lan toả
theo không khí, nguồn nước, bám trên mái nhà dư đọng đến 430 mg/kg bèo,…Môi
trường xấu tác động trực tiếp đến sức khoẻ người dân, tỷ lệ bệnh do ô nhiễm ở
các làng nghề cao hơn các nơi khác, bệnh thuộc đường hô hấp, da liễu, thần
kinh, đường ruột, rối loạn phụ khoa; làng tái chế chì Đông Mai (Hưng Yên) có số
trẻ dị tật là 48 em (2005) nhất tỉnh, 100% dân số bị nhiễm chì.
Thực tế
đó đặt ra yêu cầu phân loại mức độ ô nhiễm, đánh giá toàn diện tác hại, tập
trung xử lý các điểm đen, thậm chí đóng chấm dứt hoạt động một công đoạn, hoặc
toàn bộ đối với làng nghề gây ô nhiễm nặng như làng tái chế chì. Trung
Quốc những năm 90 của thế kỷ 20 cực thịnh các xí nghiệp hương trấn, nay đã phải
giải quyết hậu quả ô nhiễm bằng cách chấm dứt những nghề gây ô nhiễm, quy hoạch
lại các xí nghiệp hương trấn,… cần có khảo sát kinh nghiệm của Trung
Quốc.
Giao
thông vận tải
Cả nước
có 1.107 HTX (bao gồm cả vận tải đường bộ, đường sông, cả vận tải hành khách và
hàng hoá). Nguồn vốn đầu tư ước trên 60.000 tỷ đồng, trong đó khu vực HTX đang
quản lý 50.000 ôtô khách/80.251 chiếc của cả nước (62,3%), 150.000 ôtô
tải/226.888 chiếc (66,11%) của cả nước; 60.000 phương tiện thủy nội địa/95.193
chiếc (63,03%) và khoảng 200.000 ghe khách và 3.000.000 tấn trọng tải. Các HTX
đã thu hút trên 120.000 hộ xã viên, thành viên, bình quân một HTX có 98 xã
viên, hộ xã viên và 81 lao động, vốn điều lệ bình quân là 4,8 tỷ đồng. Các HTX
vận tải đạt 50-80% tổng nhu cầu vận tải của mỗi tỉnh và cả nước.
Hầu hết các tỉnh, thành phố đều có HTX giao thông vận tải,
đứng đầu là thành phố Hồ Chí Minh có 174 HTX, 01 Liên hiệp HTX đảm nhiệm 77%
nhu cầu vận tải hành khách và trên 80% vận tải hàng hóa của thành phố, mở ra
200 tuyến liên tỉnh.
Cho đến
nay các phương tiện giao thông ở các nước đã góp vào 50% ô nhiễm không khí, tỷ
lệ này cao hơn nữa đối với các nước yếu kém về quản lý phương tiện, và hạ tầng
giao thông yếu kém, phương tiện cũ kỹ. Ô nhiễm không khí, tiếng ồn do giao
thông vận tải gây ra “rắc đều” vào môi trường sống, gây hậu quả cho nhiều người
tham gia hoặc không tham gia giao thông.
Sự di
chuyển, tập trung của hành khách, hàng hoá ở bến bãi, đường đi tạo ra nguồn rác
thải lớn do những thói quen xả rác, điều kiện bến bãi, tiêu chuẩn chất lượng
phương tiện không an toàn đối với nguồn hàng, đặc biệt là vận chuyển đất cát,
chất thải, hoá chất.
Các
lĩnh vực khác như xây dựng, khai thác và chế biến đá, quặng mà HTX tham gia
gây ô nhiễm môi trường ở phạm vi hẹp, hiện nay cả nước chưa đến 700 HTX xây
dựng. Sản xuất vật liệu và xây dựng tăng trưởng cùng với quá trình đô thị hoá
và chỉnh trang đô thị tạo ra ô nhiễm môi trường nặng nề ở các vùng mỏ,
công trường xây dựng, nhà máy sản xuất xi măng, vật liệu, cùng số chất thải rắn
gây bức súc, khiếu kiện.
Các HTX
điện, nước, y tế, trường học,… đã và đang góp vào quá trình xã hội hoá đầu tư,
tham gia bảo vệ môi trường.
Ô nhiễm
môi trường do hoạt động sản xuất, kinh doanh của HTX nhìn chung là thấp, điều
này minh chứng ở tỷ trọng GDP của kinh tế tập thể chỉ đạt mức cao nhất là 8,5%
tronng 10 năm qua và tiếp tục giảm. Kinh tế tập thể gắn với cộng đồng dân
cư ở khu vực nông nghiệp và nông thôn, các vùng đô thị hoá là “nạn nhân”của ô
nhiễm môi trường. Ý thức trước cộng đồng, cùng với các thành phần kinh tế
khác các địa phương đã và đang chỉ đạo thành lập các HTX, tổ hợp tác môi
trường nhằm giải quyết cục bộ địa bàn dân cư, mở ra phong trào bảo vệ môi
trường có tổ chức, có ý thức, có sự tham gia của người dân,của hệ thống chính
trị cơ sở.
2.
Thực trạng phát triển HTX dịch vụ môi trường
Hiện nay cả nước có hơn 130 HTX chuyên làm
dịch vụ vệ sinh môi trường, ngoài ra còn có các tổ môi trường trong các hợp tác
xã, hàng nghìn tổ của đoàn thể thực hiện công tác vệ sinh môi trường ở cụm dân
cư, tổ dân phố đặt ra cho các cơ quan quản lý nhà nước về phát triển các tổ
chức mang tính xã hội cộng đồng.
Đến cuối
năm 2005, các tỉnh có HTX môi trường hoạt động có hiệu quả như : Hà Tây,
Hà Nội, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc
Giang, Bắc Ninh, Hải Dương, Thanh Hoá, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Bình Thuận, Tp.Hồ
Chí Minh, Đồng Nai, Bạc Liêu,... (xem Phụ lục 1)
Bắc Giang là tỉnh đi đầu, đến cuối năm 2007 có 8 HTX, 20
câu lạc bộ phụ nữ làm công tác vệ sinh môi trường, hơn 10 làng năng suất
xanh trong đó HTX môi trường ở thị trấn Thắng, huyện Hiệp Hòa là một điển
hình.
Năm 1998, HTX vệ sinh môi
trường Hiệp Hòa, Bắc Giang được thành lập theo Luật Hợp tác xã, ý tưởng
của thầy giáo nghỉ hưu- chủ nhiệm Nguyễn Minh Châu đã được 15 xã viên và 20 lao
động hưởng ứng với vốn góp sau một năm được 30 triệu đồng. Chủ nhiệm HTX gương
mẫu cho mượn xe ô tô thu gom rác, giành 45 m2 nhà ở làm trụ sở, nơi để xe
và phương tiện. Hơn 1 năm, Ban quản trị không nhận lương, người lao động cũng
chỉ nhận thu nhập chưa đến 200000 đồng/tháng, nhiều hộ dân không nộp phí, không
cho thu gom rác,… HTX kiên nhẫn làm việc và vận động dân, tham mưu cho chính
quyền ra văn bản quản lý. Đến cuối năm 2005 HTX được UBND huyện hỗ trợ 120
triệu đồng mua 7000 m2 đất làm bãi thải, 13 triệu đồng mua sắm trang thiết bị
và được thu phí đến từng hộ, tài sản của HTX đạt gần 200 triệu đồng. HTX đã
phối hợp với Ban chỉ đạo quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường, sở Khoa
học và Công nghệ, Sở Tài nguyên và Môi trường để tuyên truyền, giáo dục cộng
đồng với hơn 4000 lượt người tham gia, tập trung vào học sinh, giáo viên,
thanh niên. HTX áp dụng công nghệ môi trường sử dụng dung dịch EM, hầm khí
Biogas, trồng và bảo vệ cây xanh, xử lý rác thành phân bón vi sinh cải tạo
đất,... Chủ nhiệm được bầu làm Chủ tịch hội sinh vật cảnh huyện, HTX được giao
làm vệ sinh, tôn tạo cảnh quan 10 km đường nội thị,…Qua 9 năm hoạt động, HTX vệ
sinh môi trường Hiệp Hòa đã chứng minh công tác xã hội hóa hoạt động môi
trường, chuyển thành phong trào, nếp sống của cộng đồng; HTX được nhận bằng
khen của Chính phủ, 3 bằng khen của UBND tỉnh, Chủ nhiệm được 9 bằng khen của
Bộ; 10 tỉnh thành phố và 22 đoàn đến tham quan, trao đổi học tập nhân rộng mô
hình.
Thành công của HTX vệ sinh
môi trường Hiệp Hòa là tập thể tự lực, tâm huyết, trách nhiệm với cộng
đồng, đi từ 5 không "Không
kinh phí; Không cơ sở vật chất, trang thiết bị, văn phòng làm việc; Không có
phương tiện vận chuyển ; Không có văn bản pháp quy hướng dẫn cụ thể - Không có
bãi đổ rác thải". Ban quản trị, xã viên, người lao động gương
mẫu; kiên nhẫn thuyết phục cộng đồng và đề đạt chính quyền, đoàn thể hỗ trợ.
HTX không vì lợi nhuận nhưng cần có vốn, được hỗ trợ của nhà nước để bảo đảm
trang thiết bị và thu nhập hợp lý cho người lao động.
HTX môi trường Đồng Lợi,
huyện Việt Yên làm vệ sinh môi trường, dạy nghề may, sản xuất dép, vật liệu
nhựa, hướng tới sản xuất phân vi sinh là một hướng đi tích cực. (xem phụ lục)
Hà
Tây: Từ Tổ hợp tác thành lập HTX môi trường thu gom rác thải khu vực
nông thôn.Được sự nhất trí, đồng tình ủng hộ của lãnh đạo xã và Công ty Môi
trường đô thị Sơn Tây, tháng 8-2004, Tổ thu gom rác thải VSMT Thành Đạt, xã Tản
Lĩnh, huyện Ba Vì, Hà Tây ra đời. Năm 2005, Tổ quyết định mở rộng địa bàn hoạt
động và thành lập HTX môi trường Thành Đạt (Chủ nhiệm HTX, Ông Nguyễn Văn
Trước) mở rộng hoạt động thu gom rác đến các xã lân cận: Yên Bài, Ba Trại và
các cơ quan xí nghiệp, các trường học và các khu du lịch của Ba Vì. Sức vươn
của HTX ngày một mạnh sau hơn một năm hoạt động mang lại hiệu quả lớn. Khối
lượng thu gom khoảng 3 tấn/ngày, rác được vận chuyển đến bãi rác Sơn Tây để xử
lý. Các xã viên được trang bị đầy đủ các phương tiện như xe thu gom, thiết
bị bảo hộ lao động.
HTX Môi trường Thành Đạt hoạt động với hình thức
Nhà nước và nhân dân cùng làm. HTX ký hợp đồng kinh tế với Công ty MTĐT Sơn
Tây thu gom, cân rác cho Công ty với 1kg rác là 600 đồng. Thu của
mỗi hộ dân một tháng 6.000 đồng, riêng với trường mầm non, HTX không thu
tiền. Tổng nguồn thu của HTX một tháng khoảng 12 triệu đồng, trừ chi phí, nhân
công, lãi khoảng 2 triệu đồng. Đây là một hình thức dịch vụ kinh tế-xã hội cộng
đồng, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động: 600 ngàn đồng đối với lao
động thu gom, 800 ngàn đồng đối với lái xe. Thời gian tới, HTX sẽ tuyển
thêm nhân công lên khoảng 25 người và đầu tư thêm 4 xe vận chuyển nhằm mở
rộng thu gom trên địa bàn toàn huyện.
Hoà Bình: Tổ hợp tác vệ sinh môi trường thị trấn Lương Sơn,
tổ trưởng là ông Trần Mạnh Du, thương binh 2/4 cùng với 23 người trong đó 6 lao
động hợp đồng thời vụ, 17 thành viên chính thức; có 8 thành viên góp 100 triệu
đồng, còn 9 người góp sức lao động. Tổ hợp là đơn vị hạch toán độc lập, hoàn
toàn tự chủ, tự quản và tự cân đối thu chi đã giải quyết tích cực môi trường
trên vùng dân cư có 8 km đường quốc lộ 6A chạy qua, 25 km nội thị và 2 chợ, thị
trấn có 13.000 dân với 3.400 hộ, 62 cơ quan đơn vị tỉnh, trung ương và các đơn
vị kinh tế tập thể, cá nhân đóng trên địa bàn. Trong 6 năm (2001-2007) tổ đã
thu gom, vận chuyển, xử lý gần 200.000 m3 rác thải các loại bằng
cách thuê đất, thuê máy đào hố chôn lấpgiữ cho đường phố đô thị sạch đẹp không
gây ô nhiễm môi trường nhất là những ngày lễ tết, hoạt động của tổ hợp liên tục
suốt 360 ngày trong năm.
Hà Tĩnh đã triển khai được 5 mô hình tự quản về vệ sinh môi trường. Đó là HTX môi
trường thị trấn Kỳ Anh, 4 đội vệ sinh môi trường ở xã Thạch Kim (huyện Thạch
Hà), thị trấn Cẩm Xuyên, thị xã Hồng Lĩnh, thị trấn Đức Thọ. Các mô hình này
được sự chỉ đạo của Sở KH-CN, Sở TN&MT, Uỷ ban nhân dân huyện, thị, xã;
trong quá trình hoạt động chú trọng công tác tuyên truyền để cộng đồng dân cư
nhận thức về nhiệm vụ, quyền lợi tham gia công tác vệ sinh môi trường, chuyển
thành hành động tích cực, tự giác. Sắp tới Hà Tĩnh sẽ nhân rộng các mô hình này
ở tất cả 11 huyện, thị trong Tỉnh. HTX môi trường đô thị Kỳ Anh được Bộ
trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường tặng Giải thưởng Môi trường năm 2004
Thành
phố Hồ Chí Minh. Với một thành phố hơn 6 triệu dân, mỗi ngày thải ra hơn
4.500 tấn rác, lượng rác nầy trước đây do các đơn vị nhà nước đảm nhận vận
chuyển (chủ yếu từ các thùng rác tập trung đến bãi rác) còn việc lấy rác từ các
hộ dân trong các đường hẻm nhỏ là do tổ dịch vụ làm. Do quá trình đô thị hóa
nhanh, dân cư đông nên nhu cầu dịch vụ lấy rác tăng lên. Từ thực tiển đó HTX
vệ sinh môi trường đã được nhiều thành phần kinh tế tham gia dịch vụ thu gom
rác, trong đó có kinh tế tâp thể như : HTX Công nông-quận11, HTX vệ sinh rút
hầm cầu-quận 1, HTX Vệ sinh môi trường phường Thảo Điền-quận 2, HTX Nông nghiệp
Linh Xuân, Tổ lấy rác dân lập-quận 1…Trong những năm qua các HTX đã góp một
phần không nhỏ của mình vào làm cho thành phố sạch đẹp.
Theo điều tra của nhóm
nghiên cứu của Liên minh HTX Việt Nam, đến giữa cuối năm 2007 có 32/64
tỉnh có HTX dịch vụ môi trường với tổng số 134 HTX, phân bố ở 17 tỉnh phía Bắc
và 15 tỉnh phía Nam, các tỉnh có nhiều HTX dịch vụ môi trường là Tiền Giang
(20), Yên Bái (13), Hà Nội (9), Bắc Giang (8), Đắc Lắc (8),… Các dịch vụ chính
của HTX: Thu gom, vận chuyển chất thải, cung cấp nước sạch, một số ít làm dịch
vụ chăm sóc cây xanh và chiếu sáng, quản lý chợ, và tang lễ, chế biến hạt
nhựa,… 134 HTX mỗi ngày gom, vận chuyển và xử lý chôn lấp, đổ bãi khoảng 1000
tấn rác/ngày, trong đó trên 80% là rác thải sinh hoạt. Điều này cho thấy
hoạt động của HTX trực tiếp phục vụ cộng đồng. Mức phí các hộ dân đóng góp rất
thấp từ 2000 – 6000 đồng /tháng, vận động thu phí rất khó khăn.
Mô hình tổ chức :
(1) HTX chuyên, HTX nước sạch (khai thác và mua lại của công ty); các HTX nông
nghiệp ngành nghề khác kiêm dịch vụ môi trường. Tổng mức vốn Điều lệ và vốn huy
động từ 100-1 tỷ đồng; đa số sử dụng thiết bị thô sơ (kéo, đẩy, chổi,
xẻng) có ít HTX sử dụng vận tải cơ giới, chưa HTX nào có máy ép rác và thiết bị
chuyên dùng; lao động bình quân khoảng 20 người/HTX, thu nhập của lao động từ
300 000 – 1, 5 triệu đồng/tháng, 30% lao động hưởng phụ cấp độc hại, 1/3 được
đóng bao hiểm xã hội và y tế. Các HTX dịch vụ môi trường ở các địa phương có
cách làm năng động, sáng tạo cần được các tổ chức tài trợ khảo sát, đánh giá và
tuyên truyền.
Nhận xét chung:
- Chính quyền, đoàn thể,
nhân dân, doanh nghiệp trên địa bàn ủng hộ thành lập, phối hợp tuyên truyền,
nhiều nơi tạo điều kiện cho HTX thu phí chợ, kinh doanh vận tải, bốc xếp, mở ki
ốt, một số HTX cho xã viên vay vốn làm kinh tế gia đình. Nếu chỉ thu phí của
các hộ thì không đủ chi trả lương và khấu hao tài sản.
- Các HTX thiếu đất làm
bãi, hố chôn lấp chất thải, đất làm trụ sở để dụng cụ, đất để làm dự án tái chế
gạch không nung, nhựa, phân vi sinh và cơ sở sản xuất kinh doanh khác đồng thời
thiếu vốn.
- Mức độ trợ giúp thiết
bị, công nghệ, vốn từ phía nhà nước và các tổ chức có sự khác nhau giữa các
HTX.
- Mô hình HTX chuyên vệ
sinh môi trường và HTX kiêm còn mới (tăng từ năm 2005) nên chưa được nghiên
cứu, tổng kết, hiện nhận biết qua các báo cáo, hội thảo trong phạm vi hẹp.
- Các HTX làm dịch vụ cộng
đồng chưa có mối liên kết hệ thống trong khu vực, chưa hình thành tổ chức
liên xã nhưng có ảnh hưởng tích cực như trường hợp ở Bắc Giang các huyện đã vận
động xây dựng một HTX hay doanh nghiệp làm dịch vụ môi trường,bước đi đó là phù
hợp.
- Một HTX môi trường mà
kiêm nhiệm thu gom,vận chuyển, tái chế, kinh doanh khác sẽ có nguy cơ giảm tính
chuyên môn hoặc đi chệch mục tiêu dịch vụ cộng đồng, thiên về kinh doanh khác?
- HTX chủ yếu làm dịch vụ
môi trường dân cư phạm vi xã phường, trị trấn, chưa mở rộng địa bàn và đối
tượng dịch vụ môi trường như các chợ, khu công nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp,
cơ sở kinh doanh, có sự phân định hành chính và phân chia doanh nghiệp nên HTX
chưa với tới, hoặc muốn được làm lại mắc vào những thoả thuận bất lợi như phí
thấp, cước vận chuyển cao,…
-Ghi nhận tích cực của
sáng lập viên và người lao động, không mặc cảm nghề nghiệp, công việc; ghi nhận
sự ủng hộ của chính quyền, đoàn thể và chuyển biến về nhận thức của người dân.
Thực tiễn này khẳng định
việc đầu tư phát triển HTX dịch vụ môi trường là định hướng xã hội hoạt động
của cộng đồng với ý thức nhân dân là chính, nhà nước hỗ trợ thường xuyên, sử
dụng các công cụ quản lý theo pháp luật.
3.
Chuyển đổi, thành lập và đầu tư phát triển HTX dịch vụ môi trường.
3.1. Tiếp cận các tiêu chí cơ bản
Nhiều tổ chức, đoàn thể chú trọng đến phong trào vệ sinh môi trường nhưng
trở thành hiện thực bền vững phải có tổ chức chuyên trách thực thi với những
lao động có tính chuyên môn. Mô hình HTX môi trường, được tóm tắt như
sau:
Xã viên: Phấn
đấu tất cả những cá nhân, hộ, pháp nhân kinh doanh và pháp nhân phi lợi nhuận
trên vùng địa lý, quy mô ban đầu là thị trấn, xã, phường.
Sản phẩm, dịch vụ: Làm sạch môi trường, thu gom xử lý chất thải, dịch vụ ma chay, nghĩa
trang, cấp thoát nước, quản lý một số công trình như chợ, đường giao thông nội
vùng; tư vấn, truyền thông, giáo dục môi trường; trồng và quản lý cây xanh, xử
lý và chế biến, tái chế chất thải; duy tu, bảo dưỡng, đầu tư các công trình bảo
vệ môi trường, nguồn lợi tự nhiên,...
Địa bàn hoạt động : Liên thôn đến một xã, tổ dân phố, sau đó mở rộng liên kết thành lập LH
HTX môi trường cấp huyện, hình thành hiệp hội môi trường.
Hình thức tổ chức kinh doanh :
+ Phi lợi nhuận: Làm dịch vụ có thu phí các hộ, đơn vị trên địa
bàn bù chi, hỗ trợ hộ xã viên bằng giới thiệu việc làm vệ sinh tại gia, các cơ
quan có nhu cầu theo giờ, ngày, tháng, năm;
+ Lợi nhuận thấp: hợp đồng dịch vụ với các công ty môi trường hiện
có, hợp đồng với các cơ quan, nhà máy, khu di tích, bệnh viện, trường học, hộ
gia đình,…
+Thu lợi nhuận: Dịch vụ khu du lịch vui chơi giải trí, du lịch
sinh thái, chế biến, tái chế chất thải và các hoạt động sản xuất kinh doanh
khác.
Vốn: Vốn góp
của xã viên, vốn vay, vốn tài trợ, vốn công trợ của chính quyền và các tổ chức
quốc tế. Nguồn hỗ trợ lâu dài: Từ chương trình nước sạch và vệ sinh môi
trường, chương trình phát triển nông thôn, cải tạo chỉnh trang đô thị, vốn phúc
lợi của cộng đồng, quan trọng hơn là đơn đặt hàng của Chính phủ và các nhà sản
xuất; các dự án quốc tế về môi trường ở Việt Nam nên lấy HTX là một đối tượng
thực hiện
Công nghệ: Áp
dụng công nghệ tiên tiến, cơ giới, trang bị dụng cụ, đồ bảo hộ cho người lao
động, người tiêu dùng được tư vấn và cung cấp các thiết bị xử lý chất thải, ví
dụ như được phát túi đựng, chất phân hủy, thùng đổ rác có phân loại, đầu tư
công nghệ chế biến, tái chế chất thải, đầu tư đổi mới công nghệ xử lý chất thải
trong quy trình sản xuất…Tham gia sâu vào quá trình sản xuất sạch.
3.2.Các hình thức thành lập và tổ chức hoạt động
Tổ hợp tác môi trường: Quy mô thôn, liên thôn, tổ, cụm dân cư ở thị trấn, khu công
nghiệp, làng nghề gắn với các đoàn thể như phụ nữ, cựu chiến binh, thanh
niên,… hoạt động theo quy định của Tổ hợp tác. Các tổ hợp tác mở rộng phạm vi
hoạt động, thành lập HTX môi trường.
Hợp tác xã môi trường: Thành lập từ Tổ hợp tác, chuyển đổi từ các Ban quản lý các
công trình công cộng ở thôn xã, thành lập mới/ hoặc tách từ HTX đã có trên địa
bàn. Việc thành lập HTX theo quy định của Luật HTX 2003, Nghị định
177/2004/NĐ-CP, Nghị định 77/2005/NĐ-CP về mẫu hướng dẫn xây dựng Điều lệ hợp
tác xã, Nghị định 87, Thông tư 05 về đăng ký kinh doanh. Thành lập mới HTX được
hỗ trợ theo Thông tư 66/2006/TT-BTC. Một số HTX bổ sung ngành nghề dịch vụ môi
trường .
Phạm vi hoạt động: Tùy vào thực tế ở địa phương có thể tổ chức phạm vi hoạt động theo hướng:
- HTX môi trường chuyên ngành gắn với các ngành, lĩnh vực như : HTX môi trường làng nghề
(hiện nay cả nước có trên 2000 làng nghề mới và làng nghề truyền thống, sản
xuất tại gia); y tế ở khu đô thị có bệnh viện, phòng khám tư; cơ quan, doanh
nghiệp và trường học có ở các địa phương; cụm công nghiệp (hiện cả nước có đến
trên 100 khu công nghiệp tập trung và các cụm công nghiệp địa phương).
- HTX môi trường tổng hợp làm dịch vụ trên một địa bàn quy định.
3.3.Tổ chức chuyên môn hóa trong quy trình hoạt động môi trường
+Hình thành HTX chuyên về xử lý chất thải ở nơi phát sinh chất thải
trong sản xuất và sinh hoạt để hạn chế ô nhiễm, phân loại trước khi thu gom;
HTX xử lý nơi tập trung chất thải ở các bãi theo hướng công nghiệp như
chế biến phân hữu cơ, năng lượng biogas, phân loại sơ chế, tái chế, sản xuất
gạch không nung, đồ nhựa, phân hủy chất thải.
+ HTX chuyên thu gom vận chuyển chất thải.
+HTX nghiên cứu ứng dụng khoa học, tư vấn, tuyên truyền kỹ năng vệ sinh
môi trường đến cộng đồng, đưa những thành tựu sinh học xử lý môi trường, khuyến
cáo các tập quán, nếp sống vệ sinh, an toàn môi trường,…
Việc đánh giá tác động môi trường, xây dựng hệ thống cảnh báo, phối
hợp cơ quan chuyên môn khuyến cáo, ngăn chặn rất quan trọng,làm thay đổi tập
quán thói quen canh tác lạc hậu, lạm dụng hoá dược, thay đổi các quy trình sản
xuất, xây dựng ý thức cộng đồng trong sản xuất, dịch vụ và đời sống.
Các HTX tổ chức theo hướng chuyên môn hoá tự bảo vệ cuộc sống cộng đồng,
trợ giúp các HTX, doanh nghiệp sản xuất sạch. Mặt khác, các HTX hướng dẫn
xã viên, cộng đồng tham gia giám sát tác động môi trường các dự án đầu tư trên
lãnh thổ. Tạo tiếng nói có tổ chức,có hiệu quả.
Các HTX môi trường cần được tham gia dự án Hợp tác kỹ thuật do quốc tế
tài trợ, thực hiện sáng kiến 3R . Kết quả mô hình dự án 3R giảm thiểu
(reduce) - tái sử dụng (reuse) - tái chế (recycle) rác thải cần được kịp
thời nhân rộng. Các địa phương khác cần lồng ghép các chương trình dự án
quốc gia với việc tuyên truyền bảo vệ môi trường, giao HTX làm dịch vụ môi
trường đối với các công trình như điện, nước, y tế, chợ, trường học, giao
thông,…
4. Dự báo phát triển, đề nghị chính
sách và biện pháp thực hiện mô hình HTX môi trường
4.1-Dự báo phát triển HTX dịch vụ
môi trường
Cần có người tiên phong trong cộng đồng,
trong các đoàn thể làm sáng lập viên thành lập HTX, tổ hợp tác. HTX dịch vụ
nông nghiệp, ngành nghề ở địa phương thành lập một tổ đội vệ sinh môi trường.
Chính quyền địa phương đồng thuận với đề nghị của sáng lập viên và hỗ trợ thành
lập HTX, ban hành cơ chế thu phí và vận động nhân dân hưởng ứng. Cơ quan quản
lý môi trường, công ty môi trường tư vấn kỹ thuật xử lý môi trường. Việc thành
lập HTX, tổ hợp tác môi trường cần đưa vào chương trình phiên họp gần nhất của
cấp ủy, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp xã, huyện để làm căn cứ vận động
thành lập (không nhất thiết phải đợi văn bản chỉ đạo của cấp trên)
Mỗi đơn vị hành chính cấp huyện
khuyến khích thành lập mới 1 HTX môi trường; số các HTX hiện có tổ chức
một tổ đội môi trường, các đoàn thể như Hội phụ nữ, Nông dân, Thanh niên, Cựu
Chiến binh,... cấp xã thành lập 1 tổ môi trường, sau 6 tháng hoặc 1 năm sơ kết,
đánh giá rút kinh nghiệm, nhân rộng trong toàn huyện.
Số lượng HTX môi trường trên toàn quốc sẽ
tương ứng với số dân và các đơn vị hoạt động trong vùng địa lý hành chính. Dự
kiến số lượng HTX dịch vụ môi trường sau năm 2010: Vào năm 2012, nếu
thành lập mới HTX môi trường và bổ sung nhiệm vụ làm dịch vụ môi trường của HTX
hiện có ở 90% cấp huyện (thị trấn), và ở 50% đơn vị cấp
xã thì tổng số HTX dịch vụ vệ sinh môi trường toàn quốc sẽ là 5600
HTX, trong đó 600 HTX ở thị trấn và 5000 HTX ở cấp
xã. Số lượng đó phù hợp với yêu cầu và khả năng thực tế. (xem bảng 1)
Nếu mỗi HTX được thành lập mới và HTX có
tổ môi trường với số vốn góp bình quân của xã viên là 30 triệu đồng/HTX, giải
quyết việc làm 30 lao động/HTX thì tổng số vốn điều lệ để 5600 HTX hoạt động
trong khoảng 5 năm là 168 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho 168000 lao
động là một con số không lớn về vốn nhưng có ý nghĩa không nhỏ về xã hội
bởi thêm 40 triệu dân được cải thiện môi trường sống và được giáo dục
cộng đồng, hội nhập với nền kinh tế quốc tế đòi hỏi sản phẩm, dịch vụ làm ra
trong môi trường sạch có đóng dấu “xanh” đi ra thị trường. (xem
bảng 2)
4.2. Chính sách và biện pháp hỗ trợ tài
chính :
Nếu mức hỗ trợ của ngân sách nhà nước
thông qua các chương trình, dự án để hình thành tài sản, phương tiện của HTX trong
5 năm với mức 100 triệu đồng/HTX thì tổng mức hỗ trợ khoảng 560
tỷ đồng trong 5 năm, mỗi năm 112 tỷ đồng là con số ngân sách có
thể điều chỉnh từ các nguồn đang và sẽ giải ngân theo chương trình, dự án (xem
bảng 2). Sự hỗ trợ song hành với thành lập mới HTX, bổ sung ngành nghề kinh
doanh, hỗ trợ khi HTX cam kết đủ vốn góp của xã viên,... được quy định rõ ràng
sẽ tác động tích cực đến hoạt động của HTX. Trong số kinh phí hỗ trợ cần tập
trung vào việc:
+ Trang bị xe thu gom, dụng cụ và đồ bảo
hộ cho nhân công, chuyển giao kỹ thuật từ các công ty môi trường đô thị, từ các
kết quả nghiên cứu ứng dụng, chú trọng các biện pháp xử lý cục bộ đầu nguồn
chất thải và chế biến chất thải đã thu gom, hỗ trợ lãi suất mua các phương tiện
cơ giới chuyên dụng như xe vận tải, máy bơm, máy ép rác; tín dụng ưu đãi theo
dự án và miễn giảm thuế đối với dự án chế biến, tái chế rác thải.
+Phổ biến mô hình HTX môi trường và tuyên
truyền về bảo vệ môi trường đến người dân với nội dung phù hợp với văn hóa,
truyền thống.
+ Hộ trợ, cấp đất không thu tiền sử dụng
đất vào mục đích làm trụ sở HTX, đất làm bãi thải, chôn lấp, làm dự án chế biến
(đất đó là tài sản không chia, tài sản của nhà nước trong mọi trường hợp).
+ Đào tạo cán bộ quản lý, kỹ năng nghiệp
vụ cho lao động.
+ Thiết lập các trạm điểm giám sát môi
trường ,...
4.3.HTX mở rộng dịch vụ thỏa thuận
Ít nhất có khoảng 15% hộ gia đình, 50% số
các công sở, nhà máy trong cả nước cần thuê lao động có chuyên môn, có
dụng cụ làm vệ sinh môi trường theo ngày, giờ thì số HTX môi trường
sẽ đáp ứng được lao động với thu nhập bình quân không dưới 20000
đồng/ngày/người. Tổng số lao động chuyên môn đó cần tăng nhanh và HTX nên chủ
động tiếp thị nhu cầu làm sạch đẹp các ngôi nhà và tòa nhà, làm tốt các dịch vụ
tang lễ, di rời,...
4.4. Cơ quan quản lý môi trường phối hợp
với Liên minh HTX:
- Phổ biến chính sách môi trường đến các
xã, HTX;
- Khảo sát hiện trạng môi trường, hoạt
động của các HTX, tổ hợp tác để có báo cáo tổng hợp, kiến nghị cụ thể;
- Xây dựng văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của
mỗi cấp phù hợp với chính sách môi trường, chính sách khuyến khích phát triển
hợp tác xã.
- Trong kế hoạch công tác môi trường của
mỗi cấp cần đưa nội dung về thành lập và hoạt động của các HTX làm dịch vụ môi
trường./.
Liên minh HTX Việt Nam và Bộ Tài nguyên và
môi trường đẩy mạnh việc cụ thể hoá văn bản phối hợp (xem phụ lục), đưa vào kế hoạch của Bộ, ngành, triển khai
theo chương trình dự án từ Trung ương đến địa phương, phân giao quản lý, sử dụng hợp lý nguồn vốn hỗ trợ của ngân
sách nhà nước, vốn của chương trình dự án nước ngoài tài trợ.
Bảng 1: Xây dựng dự báo số lượng HTX dịch vụ môi
trường
|
2007
|
5 năm
|
Hiện có năm 2012
|
||||
2008
|
2009
|
2010
|
2011
|
2012
|
|||
Số HTX chuyên
|
130
|
94
|
94
|
94
|
94
|
94
|
600
|
Trong đó:
|
|
|
|
|
|
|
|
a.Thu gom
|
|
|
|
|
|
|
|
b.Vận tải
|
|
|
|
|
|
|
|
c.Tái chế,...
|
|
|
|
|
|
|
|
d.Nghiên cứu chuyển
giao và truyền thông
|
|
|
|
|
|
|
|
e. Làm các dịch
vụ từ a-d
|
|
|
|
|
|
|
|
HTX kiêm
|
170 (ước tính)
|
966
|
966
|
966
|
966
|
966
|
5000
|
a.Thu gom
|
|
|
|
|
|
|
|
b.Vận tải
|
|
|
|
|
|
|
|
c.Tái chế,...
|
|
|
|
|
|
|
|
d.Nghiên cứu chuyển
giao và truyền thông
|
|
|
|
|
|
|
|
e. Làm các dịch
vụ từ a-d
|
|
|
|
|
|
|
|
Tổng cộng
|
300
|
1060
|
1060
|
1060
|
1060
|
1060
|
5600
|
Bảng 2. Vốn đầu tư hình thành tài sản cố định phục vụ thu gom
Tỷ đồng
|
5 năm
|
Tổng 5 năm
|
||||
2008
|
2009
|
2010
|
2011
|
2012
|
||
Tổng số
|
|
|
|
|
|
728
|
Vốn Điều lệ xã viên góp
|
30 triệu VND x 5600 HTX
|
168
|
||||
Vốn công trợ từ ngân
sách bao gồm cả giao đất không thu tiền sử dụng đất
|
100 triệu x 5600 HTX
|
560
|
||||
- HTX chuyên
|
Chiếm 70%
|
392
|
||||
- HTX kiêm
|
Chiếm 30%
|
168
|
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)