Mô hình Hợp tác xã nông nghiệp làm dịch vụ cho nông dân
Xem Phương pháp chia lãi cho xã viên
http://cogaigacrung.blogspot.co.id/2016/12/phuong-phap-chia-lai-cho-xa-vien-hop.html
Mô hình hợp tác xã chợ
http://cogaigacrung.blogspot.co.id/2014/10/xay-dung-va-phat-trien-cho-o-viet-nam.html
Xem Phương pháp chia lãi cho xã viên
Mô hình hợp tác xã chợ
http://cogaigacrung.blogspot.co.id/2014/10/xay-dung-va-phat-trien-cho-o-viet-nam.html
Vấn đề tam nông (nông nghiệp,
nông thôn và nông dân) là mối quan tâm của toàn xã hội. Các nghiên cứu đưa
ra những cảnh báo:
(1) Số đông nông dân chịu nhiều
thua thiệt trong tiến trình đô thị hoá, công nghiệp hoá, bị mất đất, mất việc
làm, tiền bồi thường thấp không kèm theo các ưu đãi về đào tạo, học tập của con
em; có 20% dân số có thu nhập cao nhất hưởng đến 40% phúc lợi an sinh xã hội;
các khu công nghiệp, dịch vụ thu hút chưa đến 10% lao động địa phương (huyện)…
(2) Chi phí sản xuất nông nghiệp
tiếp tục tăng, các khoản đóng góp của nông dân không giảm; mức hỗ trợ của nhà
nước về giống, thú y, thuỷ lợi phí, trợ giá cước, xây dựng hạ tầng…có những tác
dụng trên một số lượng thấp so với nhu cầu thực tế sản xuất và đời sống;
(3) Giá lương thực tăng có lợi
cho sản xuất lúa gạo; đa số nông dân sản xuất lúa gạo ý thức được việc dự trữ
lương thực cho tiêu dùng đã ngăn chặn ảnh hưởng khủng hoảng lương thực nhưng
giá lương thực biến động tăng rồi giảm, việc phá bỏ diện tích cây công nghiệp,
mặt nước thuỷ sản sang trồng lúa cần cân nhắc!
(4) Vai trò của HTX nông nghiệp
chưa rõ ràng, thời gian qua HTX bảo đảm các dịch vụ làm đất đạt 3,3% nhu cầu
thực tế; bảo vệ thực vật : 2,2%; Thú y: 9.2%; Phối giống gia súc, gia cầm:
0,7%; Bán sản phẩm nông nghiệp: 1,3 %; Cung cấp thông tin thị trường: 2,6%. Đa
số là các hộ nông dân tự cung, tự cấp các khâu sản xuất-tiêu thụ, bị thị trường
chèn ép giá cả, bị bên mua nợ tiền bán nông sản (Ví dụ như Công ty Thủy sản
Bình An, hiện nay nợ nông dân 300
tỷ đồng tiền bán cá); Bán sản phẩm
chất lượng kém,...Điều tra của Tổng cục Thống kê cho thấy năng lực vốn,
lao động, doanh thu của các HTX nông nghiệp rất thấp, thấp hơn một hộ
kinh doanh có quy mô trên trung bình ở nông thôn, do vậy hoạt động kinh
tế của HTX có tính chất hình thức.
Khoán 10 đã được 20 năm, những kết quả đạt
được rất lớn (nổi trội là cân đối lương thực chính khu vực nông thôn, đưa
Việt Nam là nước xuất khẩu gạo lớn nhất) nhưng cũng bộc lộ nhược điểm
về quy mô, ruộng nhiều thửa manh mún, sản xuất theo phong trào, thiếu các hợp
đồng chuyên canh đủ số lượng và chất lượng xuất khẩu, thiếu biện pháp bảo hiểm
thiên tai, bảo hiểm tác động xấu của thị trường.
Các trang trại tích tụ đất bằng cách
mua, thuê, mượn quyền sử dụng đất của nông dân (hiện nay hơn 11 vạn chủ hộ
trang trại chiếm 10% diện tích đất nông lâm nghiệp), cùng với đô thị hoá và ô
nhiễm môi trường, bệnh dịch trong nông nghiệp khiến nhiều hộ nông dân hầu như
không còn tư liệu sản xuất tối thiểu, không có vốn góp vào HTX, trang trại,
vào chính các công ty lấy đất nông nghiệp. Có số liệu cho thấy, đất nông
nghiệp xã vùng ngoại ô thành phố lớn, mỗi năm mất đến gần 50% diện tích chuyển
sang đất phi nông nghiệp!
Thực tế đó đòi hỏi các HTX nông nghiệp
phát triển theo mô hình mới, tham gia thị trường giành lợi ích từ thị trường để
hỗ trợ kinh tế hộ xã viên, bảo vệ nâng đỡ người nghèo đã và đang yếu thế trong
xã hội trước hết là bảo vệ quyền sử dụng đất là tài sản quan trọng, cuối cùng
của nông dân. Các HTX nông nghiệp làm dịch vụ cho nông dân theo các nội dung
sau:
Xã viên được được hưởng lợi trực tiếp từ mua bán
với HTX. Với vai trò làm dịch vụ đầu vào, đầu ra
cho sản xuất nông nghiệp, HTX bảo đảm số lượng, chất lượng, giá cả dịch
vụ tốt nhất, có sức cạnh tranh với thị trường. Thực tế có một số HTX đã giảm
giá vật tư, dịch vụ, tăng giá mua sản phẩm của nông dân so với thị trường
từ 7-10%; tỷ lệ này có thể tăng thêm khi HTX nông nghiệp được miễn, giảm toàn
bộ thuế phát sinh từ các dịch vụ mua bán với xã viên nông dân, HTX chủ động
giảm lợi nhuận tập trung. Thực chất là chuyển lợi nhuận của HTX vào xã viên, từ
đó nông dân tự nguyện tham gia HTX. Đây là biện pháp kinh tế quan trọng nhất
cần áp dụng, cần tham khảo kinh nghiệm của HTX nông nghiệp Nhật Bản, Hàn Quốc,
Hoa Kỳ nơi có tỷ lệ từ 80-100% nông dân là xã viên. Tóm lại, HTX khi trao đổi
với xã viên thì bán rẻ, mua đắt hơn giá thị trường; khi trao đổi với thị trường
thì mua rẻ do mua tập trung số lớn, bán được giá do bán chung không để thị
trường ép giá từng xã viên. Lợi ích kinh tế của xã viên–nông dân đặt lên đầu
trong hoạt động của HTX nông nghiệp.
Định hướng lợi nhuận của HTX nông nghiệp : Lợi nhuận tập trung của
HTX (=)Lợi nhuận từ phục vụ xã viên (+) Lợi nhuận kinh doanh trên thị trường;
Lợi nhuận từ phục vụ xã viên nhỏ hoặc không có lợi nhuận đối với một số mặt
hàng thiết yếu; Lợi nhuận kinh doanh trên thị trường như các doanh nghiệp kinh
doanh vì lợi nhuận. HTX lấy lợi nhuận trên thị trường để hỗ trợ xã viên. Xã
viên làm nên HTX, là đối tượng phục vụ của HTX, HTX phục vụ trực tiếp xã viên
qua mua bán, hỗ trợ kỹ thuật, giáo dục cộng đồng.
Với cách để xã viên được hưởng lợi trực tiếp từ mua bán với HTX thì số
lượng xã viên ngày càng tăng, thị phần ổn định, lợi nhuận đơn vị sản phẩm, dịch
vụ nhỏ nhưng tổng lợi nhuận định kỳ lớn. Quản trị kinh doanh trong cơ chế thị
trường gọi việc duy trì ổn định khách hàng và tăng số lượng tiêu thụ của mỗi
khách hàng là chiến lược khách hàng, nhiều khi gọi là khách hàng thân
thiện, khách hàng ruột, khách quen.
Hỗ trợ xã viên, giảm lợi nhuận tập trung không phải là bao cấp bởi sự hỗ
trợ này do HTX thực hiện, không phải ngân sách trực tiếp của nhà nước; sức mạnh
của các nền kinh tế hiện đại đã chuyển từ bao cấp, trợ giá của nhà nước sang cơ
chế tổ chức kinh doanh tự nâng đỡ trong nội bộ tổ chức kinh doanh.
Nhiệm vụ đặt ra đối với HTX nông nghiệp là xây dựng các phương án tổ chức
mua bán theo nguyên tắc mua rẻ của thị trường, giảm chi phí giao dịch, giảm
lãi trên đơn vị sản phẩm do HTX kinh doanh để bán rẻ cho xã viên. Sử dụng
lợi thế xã viên là người tiêu thụ ổn định để đàm phán với các nhà cung cấp sản
phẩm, dịch vụ trên thị trường, giành lợi ích cho xã viên. Có thể đấu thầu để
chọn nhà cung cấp tốt nhất. Mặt khác, HTX tổ chức các đại lý bán lẻ tư liệu sản
xuất, hàng hoá tiêu dùng, đến các cụm dân cư theo hướng văn minh thương mại.
Trong lịch sử phong trào HTX, “cung tiêu” cung ứng hàng hoá, dịch vụ (mạnh
nhất là tín dụng) và tiêu thụ sản phẩm cho xã viên (mạnh nhất là nông sản và
hàng thủ công) là nội dung nguyên thủy đến nay vẫn là tâm điểm của HTX,
tạo ra sức mạnh cạnh tranh với thị trường, nâng vị thế xã viên - nông dân là
người sản xuất tạo ra của cải cho xã hội, là người tiêu dùng thực hiện lợi
nhuận cho các nhà sản xuất kinh doanh. Nếu người tiêu dùng không đứng trong tổ
chức HTX sẽ không đồng ý chí, tiếng nói tạo sức mạnh “thực hiện quyền của
những thượng đế- quyền của người mua, người bán, quyền thoả thuận”. Chỉ có
HTX với tư cách là một tổ chức kinh tế-xã hội mới giải quyết lợi ích trực tiếp
cho xã viên; các hiệp hội không phải là pháp nhân kinh doanh chỉ có thể gián
tiếp lên tiếng, kêu gọi bảo vệ nông dân thông qua tiếp nhận, chuyển đơn thư
khiếu kiện, giấy tờ, diễn đàn,…
Những lợi ích kinh tế là chất kết dính gắn bó, liên kết bền vững về mặt xã
hội mà ta gọi là kinh tế hợp tác. Không còn hợp tác nếu hợp tác không có
lợi. Hợp tác về kinh tế làm cơ sở phát triển cộng đồng mà mô hình HTX mới dân
chủ hoá đời sống kinh tế trong cơ chế thị trường.
Hợp tác xã phát triển cộng đồng: Xã viên HTX là cá nhân, hộ gia đình (một người đại diện cho cả nhà), pháp
nhân (một người đại diện cho nhiều người) tạo thành các “nhóm đồng sở thích”
bươn trải trong dòng chảy của kinh tế thị trường, bảo tồn các kết cấu lợi ích tất
yếu, tránh những mặt trái của kinh tế thị trường, phát triển cộng đồng song
hành về kinh tế và xã hội. Khía cạnh xã hội đòi hỏi sự chia sẻ lợi ích theo
nguyên tắc mọi người vì một số ít người, một số ít người cùng mọi người thuận
tòng theo HTX lúc khó khăn cũng như lúc thuận lợi với tinh thần “HTX là nhà,
xã viên là chủ” hoặc “mình vì mọi người, mọi người vì một người”.
Khía cạnh kinh tế là tạo ra những lợi ích mà xã viên làm nhiều, góp nhiều,
mua bán nhiều với HTX thì được hưởng nhiều lợi ích từ HTX. Một pháp nhân sản
xuất kinh doanh mặt hàng tiêu dùng có một lực lượng xã viên tiêu dùng ổn định,
hoặc cung cấp ổn định nguyên liệu, bán thành phẩm đầu vào; một cá nhân có chỗ
dựa là HTX về kinh tế -xã hội trong lúc khó khăn, và ổn định việc làm, thu
nhập; một hộ gia đình kinh doanh được cung ứng đầu vào, tiêu thụ đầu ra với chi
phí sản xuất cạnh tranh; quỹ của HTX hỗ trợ xã viên sản xuất, kinh doanh, tăng
phúc lợi, chia sẻ rủi ro,…là những nội dung của phát triển cộng đồng, nâng cao
thực tế giá trị tinh thần HTX, không phải là những giá trị của ý tưởng ảo vọng,
khẩu hiệu cải lương, hành động nửa vời của những nhà xã hội không tưởng, các
kinh tế gia của nền kinh tế chỉ huy duy ý chí đã để lại bài học thất bại.
HTX là một cộng đồng có tổ chức, chứng minh khả năng tiếp nhận và sử dụng
hiệu quả nhất các nguồn vốn, nguồn lực của nhà nước, các tổ chức quốc tế mang
đến thông qua các chương trình, dự án phát triển cộng đồng. Gần đây người ta đã
nhầm lẫn khi lựa chọn cộng đồng với tên gọi số đông hoặc giao cho tổ chức mà
người đứng đầu có quyền lực hơn để triển khai dự án, đã biến hóa về giá trị và
hiện vật để lại những hậu quả. Cần áp dụng quy chế: các dự án cộng đồng có thể
đấu thầu chủ đầu tư, tham gia đấu thầu là đoàn thể, HTX hay doanh nghiệp trên
địa bàn có quy mô tương tương đương và tương tích với tính chất dự án.
Một số dự báo: Các HTX kinh doanh ngành nghề mới ở nông
thôn sẽ tăng về số lượng như HTX dịch vụ môi trường, chăm sóc sức khoẻ cộng
đồng, quản lý kinh doanh chợ, dịch vụ trường học, nhà ở, thương mại-dịch
vụ,…Các HTX nông nghiệp có xu hướng bổ sung ngành nghề kinh doanh, liên kết
thành lập liên hiệp HTX, thành lập công ty TNHH một thành viên chuyên kinh
doanh một sản phẩm, dịch vụ. HTX nông nghiệp chiếm đến 50% số lượng các HTX
trong cả nước cần được bổ sung ngành nghề mới theo hướng làm các dịch vụ cộng
đồng, chính quyền địa phương, đoàn thể mạnh dạn giao khối lượng công việc, dự
án cho HTX tham gia vì HTX là tổ chức kinh doanh và xã hội có khả năng thu hút
các đối tượng xã hội, duy tu bảo vệ, phát huy thành quả các chương trình dự án
quốc gia. Mặt khác cần nghiên cứu thành lập liên hiệp (liên đoàn) HTX nông
nghiệp, trang trại toàn quốc theo mô hình của Nhật Bản, Hàn Quốc./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét