Trận lụt thứ nhất
Tháng
Bảy năm ấy tôi tám tuổi, chập chờn, hồi hộp hai năm thì năm ấy lụt thật. Những
người dân công chào thua khúc đê vỡ đã chạy về làng báo "đê vỡ, vỡ
đê". Loa truyền thanh vang lên từng chặp loan tin dữ, hướng dẫn bà con
nhanh chóng lên chỗ cao, nên đồi. Tôi không lo sợ- trẻ con mà, tôi chạy ra đồng
thấy đồng lúa xanh vô tư trong nắng gió, tiếng réo xa xa của "quân thủy
tinh" cùng với lời la hét của người lớn đã làm tôi sợ. Lại chạy về leo cây
nhìn ra thấy đồng xanh vô tư, vẫn không thấy gì. Mẹ tôi la hét các anh em thu
đồ, tháo cánh cửa, xếp gạch kê đồ. Nhà nông, cái quý nhất là thóc, tôi giúp mẹ
được vài việc. Những lu tương vơi, lọ mắm, âu mỡ, vại cua muối, lấy thừng,
quang quẩy buộc túm treo lên cây mít, lu vò lọ khác lấy nước giếng đổ vô, buộc
hay chặn gạch lên, xếp vào góc vườn.
Nước
đi không nhanh, làng tôi cách đê vỡ gần 5 km, những cánh đồng trũng đã làm chậm
bước tiến của "đoàn quân thủy quái". Đến chiều nước vào làng, nước
theo rãnh vô ao, luồn lách không gì bằng
nước, gió chẳng là gì!
Hơi
lạnh của nước hòa với tiết cuối hạ đòi thu rất lạnh. Tôi bước xuống nước trong
sân thấy lạnh, nước có màu vàng nhạt,
anh em tôi đánh dấu thấy nó lên rất nhanh, cứ thế người lùi lùi trước sức nước.
Anh
em chúng tôi ăn bát cơm với thịt gà, mẹ cho thịt mấy con để ăn dần. Sau này tôi
thấy mẹ tôi rất bình tĩnh, bố tôi vắng nhà, ông đi chỉ đạo chống lụt ở đâu đó
với lãnh đạo tỉnh. Mẹ không cho anh em chúng tôi lên núi cao, đi là chết vì
nước hung dữ cuốn trôi. Những trạm quan sát tuyệt vọng khi thấy mấy người đàn
bà gánh bên thúng gạo, bên thằng bé trôi vào dòng nước, nhiều cái chết do nước
cuốn, đắm đò, đổ nhà,…
Mẹ
bắt ngủ ngoài trời vì sợ đổ nhà, may đêm ấy không mưa. Đến sáng, tôi thấy nước bên
giường kê cao ngang chạc cây, phải kê gần cây nếu nước lên thì trèo lên cây
mít, chị tôi giữ đứa em gái, nó cứ đòi xuống nước tắm. Hai anh em trai tôi biết bơi, sẵn sàng theo
lệnh mẹ nhưng mẹ chẳng sai bảo gì. Nước đã tràn vào giường, đứa em bé đập nước
nghịch, nhìn cây mít thấy kiến bò và côn trùng bám đầy, rắn cuốn, anh em tôi
lấy que gậy xua, bọn rắn quăng xuống bơi chỗ khác, không quên giương mắt hận
nhìn người đuổi nó.
Giữa
lúc ấy, tôi thấy tiếng bộ đội gọi nhau "nhà này có người, lại đây".
Một, rồi hai, bốn, năm chú bộ đội bơi đến bàn cách đưa cả nhà tôi lên núi.
Những
người lính trẻ mình trần đầy ấn tượng với tuổi thơ tôi, các anh 18 -20 đang
huấn luyện chuẩn bị đi chiến đấu, gặp lụt thì đi cứu dân, nghe các anh nói đã
đi được vài chuyến, mỗi chuyến dài hơn 2 km. Mỗi người lính có cái phao bằng áo
mưa mà bốn người bốn góc chụp xuống nước ,rồi túm chặt thành phao, những chiếc
ni- lông quân dụng rất tốt. Các anh lặn xuống nước lấy dao găm cắt thân chuối,
chặt tay tre kết bè, mẹ tôi bảo lấy cái giường chụp lên bè chuối.
Thế
là mẹ và năm con ngồi bè "du lịch" qua ngọn cây, mẹ bảo các anh hái
nhiều nhãn mà ăn, có người lính đã rét run. Bốn anh bộ đội đã đẩy bè ra đồng
nước mênh mang, thuyền bè nhộn nhịp. Một anh ngậm nước phun phì phì đùa với đứa
em gái còn đang bú, chị cả của tôi năm ấy 14 tuổi.
Tôi
ngắm gương mặt người lính trẻ ngâm mình dưới nước đẩy bè chuối rất vất vả, sẵn
có chùm nhãn, tôi bóc vỏ thả vào miệng anh liên tục đến chán thì thôi. Đến gần
chân núi xảy ra sự cố: Có chiếc thuyền bơi loại lá tre, trên đó một ông già đội
nón mê đánh vật với chú lợn khá to, chú lợn ngang bướng định "tự
vẫn", nó cựa đứt thừng văng xuống nước sâu lắm. Thuyền lật, ông già cũng
chơi với với con lợn. Tôi biết ông già không thể chết đuối mà tiếc con lợn to
béo đang sặc nước. Thế là các anh bộ đội bỏ bè chuối sang cứu người, cứu lợn,
đâu vào đó. Anh chị em tôi trố mắt như xem xiếc trên phim.
Nhà
tôi lên bờ, chỉ biết cám ơn các anh, mẹ tôi đưa nhãn cho các anh, các anh nói
với nhau phải đi chuyến nữa vì vẫn còn dân. Sau đó mẹ tôi thuê thuyền về lấy
thóc gạo ướt lên phơi để sống những ngày đói khổ, đợi 10 tháng nữa mới có lúa
mà ăn.
Trong
chiến dịch cứu dân chạy lụt đã có những người lính hy sinh, đó là những người
lính không biết bơi mà phao bị xẹp, người lính quá mệt mỏi phải cảm lạnh.
Hôm
nay em viết dòng này cảm ơn các anh lần nữa, không biết quê, không biết tên các
anh, chỉ biết rằng các anh là bộ đội, là con em nhân dân. Sau đó, có thể nhiều
anh đi chiến trường những năm chống Mỹ gian khổ, cầu mong bốn anh đẩy mảng cứu
gia đình nhà em còn sống bình an trở về.
Trận lụt thứ hai
Sau
3 năm, Thủy tề lại thăm hỏi làng quê tôi, làng quê ở vùng phân lũ, nếu nước to
sẽ có phương án phá đê cho nước vào 9 xã quê tôi để cứu nhiều lần nhân với 9 xã
10 phường khác. Những người dân biết phận, tự cứu mình. Nghe nói, thời Tây đê
vỡ không đắp, nước tự do ra vào hàng năm, năm nước to là năm Đinh Sửu (1937).
Mùa nước là mùa cá tôm, mùa của bọn trộm cướp hoành hành, cướp đi cả thuyền
lớn. Họ bà nội tôi có một bác làm tướng cướp, trộm từ thành phố về quê. Ở thành
phố, ông ta và đồ đệ trèo cây vào cửa sổ nhà giàu, cứ túi áo túi quần mà lục
lọi lấy tiền rồi tụt xuống, nhiều người biết nhưng chống chỉ có chết, báo
phu-lít, vẫn chậm chân. Ở quê thì ông ta nhằm nhà giàu, nhà nghèo thời ấy có gì
ngoài vài con "gà rù" và con "lợn gạo", có những tên cướp
chết vì bẫy khá bi thảm như bị răng bừa rơi vào cổ, chết vì đạn, vì dao,… chúng
được tướng cướp chôn cất bảo vệ đến xanh cỏ mộ mới báo cho gia đình kèm theo
"tiền tuất".
Bà
tôi bảo ông cướp:
-
Mày trộm cắp đâu chứ đừng vào nhà cô.
Ông
trộm nói:
-
Cô có lấy thì cháu lấy thêm về.
Và
ông đã gửi bu gà, bà tôi đuổi người đuổi gà ngay tức khắc. Sau này ông ta có
tham gia kháng chiến để thoát tội. Thường thì ông cướp ở nơi khác và liên kết
với bọn thảo khấu chia vùng cướp để khỏi nhúng tay trực tiếp vào bà con. Cách
mạng đã xử công khai những tên cướp của giết người bằng cách đóng nhét tướng
cướp vô rọ lợn, thả sông trong sự chứng kiến công khai của lương dân.
Đấy
là chuyện bố tôi kể. Lúc nhỏ tôi theo mẹ đến thăm nhà ông tướng cướp ĐT ở phố,
ông ngồi trong phòng riêng, mẹ tôi chào một câu, tôi nhác thấy một ông già to
khỏe, râu trắng, mắt nhìn vào quá khứ xa xăm.
Lần
này nước to hơn trước, nước đi nhanh lắm, những cây rơm trôi, những mái nhà tranh
trôi, ván, gỗ, vại lu,… trôi, vịt không chết nhưng cũng trôi theo dòng nước.
Các
anh chị, em lên núi từ hôm trước, tôi và mẹ tôi ở nhà coi đồ với hy vọng vận
chuyển đường thuyền sẽ nhanh hơn. Điều không ngờ là mức nước quá lớn, ngập cả
cửa nhà tôi vốn được dân làng xếp là nơi cao nhất trong xã, nhiều đời lũ lụt
nhận ra đâu thấp, đâu cao. Đêm đó, đêm tuổi thơ đầu tiên tôi không ngủ vì lo
sợ, vì thương mẹ.
Nước
lên dần, nghe xa xa tiếng nhà đổ, tiếng người loan báo cho nhau, tiếng gọi trên
nước vang vọng, chẳng ai đến thăm mẹ con tôi. Sau này mẹ tôi nổi tiếng
"chống lụt tại nhà".
Tối,
mẹ con ăn chuối và thịt gà. Tôi nhìn ra mặt nước mênh mang, lạnh bởi nước, lạnh
bởi ánh trăng sắp đến Rằm tháng Bảy. Nước mênh mông, trăng sáng vằng vặc trên
đồng nước lụt quê hương. Tôi soi đèn dầu, (đèn pin để giành) xem mức nước, soi
đèn để chiến đấu chống lại rắn, tôi luôn để ý để sẵn lấy đồ làm vũ khí, đó là
gậy và dao găm.
Nước
lên to quá ngập nửa mái nhà dưới rồi, tiếng nhà đổ "ùm, ào" tiếng
người trong xóm thở dài tiếc của. Sợ nhà đổ mẹ tôi bảo: "phải phá bớt
tường gạch đất, nếu nó xụp, không đổ nhà thì sẽ đổ giàn giáo mẹ con mình đang
ngồi, rất nguy hiểm". Tôi hiểu khó mà đổ nhà vì có 6 trụ gạch cho 2 gian
nhà tranh tường đất, nhưng tường đất đổ vào trong thì đúng như mẹ nói. Ngay đó,
mẹ soi đèn tôi hất nước nên tường đất cay (gạch đất) cậy từng viên cho đến thấp
bằng mép nước mới thôi. Sau này mẹ tôi nói: "nhà cần con trai là thế"
. Năm đó tôi non 11 tuổi".
Qua
một đêm không ngủ dù gần sáng mẹ ôm tôi vào lòng. Sáng ra tôi thấy một chiếc
thuyền rất lớn bơi ngang nóc nhà hỏi có chở đồ, mẹ tôi bảo có ít đồ, sau đó mẹ
gọi thuyền quen, tôi lại giúp mẹ gom đồ, thóc ướt, đồ dùng lên thuyền. Tôi nhớ
còn có chiếc đồng hồ đặt ở nhà thấp, nước ngập cửa, tôi lặn xuống chui vào và
dùng ni-lon cuốn vào rồi đem ra. Đó là chiếc đồng hồ TQ có tên lửa chạy vòng
trên nền xanh có những vì sao lấp lánh, kỷ vật ấy tôi bảo bố mẹ tôi giữ lại như chiến lợi phẩm của nhà. Bố tôi về
thăm nhà mùa lụt năm ấy, ông bơi giỏi
lắm, ông bơi xuống nhà bà nội và tìm được bốn tấm ván hậu sự bà tôi, sau lụt
đóng làm hòm đựng thóc, 19 năm sau 6
tấm ra đi.
Tháng
10 nước rút, trước đó nước rút ra đẩy vào theo mực nước sông. Những ngày nước
rút tôi lại về trông nhà, những kỷ niệm bơi bè chuối ngang dọc trên mùa lụt quê
hương đầy ấn tượng. Cây rơm lớn nơi tụ đàn vịt ngan của mọi nhà, chúng bơi đi
kiếm ăn ban ngày, tối về đậu nóc cây rơm, người đến gần chúng bơi ào trốn rất
nhanh, chúng đã dần theo tiếng gọi hoang dã của vịt trời, sau này bọn người lớn
bẫy bắt thịt sạch, rồi cãi nhau "vịt nhà tao, ngan nhà tao". Bọn gà
nếu không thịt tế thần nước sớm thì được mang lên núi chăm sóc làm giống.
Tôi
bơi chống bè đi chơi trong xóm, mò mẫm hái cây trái, vớt đồ vớ vẩn như cái chạn
bát, bu gà, nước ra có người đến nhận lại trả. Câu cá thì vô tư, đến bữa thả
câu là bắt được cá rô hạt mít, hạt xoài. Nước cạn dần nhưng nhiều đêm tôi ngủ
trên giường cách mặt nước gang tay.
Cảnh
nước rút, phù sa đọng đầy lối, cây rữa ra nhất là cây xương rồng cùng với xác
gà, chuột, động thực vật một màu "tang tóc môi sinh". Mọi người đẩy
hết cái bẩn xuống ao. Một lần bơi thuyền vào dòng nước rút gặp xoáy sợ quá
nhưng không sao. Bọn trẻ chúng tôi mặc áo ba lỗ túm háng bằng kim băng hay dây
buộc mà chơi qua mùa nước. Nước ra đồng, chúng tôi theo nó xuống ruộng mò rất
nhiều cua. Đi học, đói vàng mắt, nhận viện trợ ngô, mỳ chia nhau cầm cự qua mùa
đông sang xuân cấy lúa đến hè mới có gạo ăn. Mẹ tôi đắp đổi cơm sắn, khoai ngô
cho qua ngày đói. Một lần chúng tôi đi học về thấy đám chia bột mỳ, tôi chứng
kiến ông già xúc thẳng một bát về nhà cho qua cơn đói, không ai cản ông. Đó là
ông già Việt Kiều Thái Lan về nước. Mấy đứa trẻ chúng tôi nhá nhuốt những hạt
ngô sống ở đống ngô đang chia cho dân làng. Lần đầu tôi thấm vị ngọt bùi của
hạt ngô viện trợ từ một nước nào đó, hạt ngô hình răng ngựa. Sau này mẹ tôi kể
"ngày ấy mẹ đã khóc thầm thấy các con đói khổ".
Trâu
đói chết dần, chết gần hết thì người bạn của trâu ra sao? con trâu là bạn nhà
nông, con trâu là đầu cơ nghiệp, những con trâu sắp chết, phải chết trong thời
thơ ấu, trong những năm tháng đời chinh chiến đã ấn vào trí nhớ của tôi.
Những
mùa mưa, lũ lụt mười mấy năm sau vẫn không tha số phận tôi và "con trai
hay con gái vua thủy tề" đã một lần sờ nghịch vào chân tôi, nhưng nó đã
buông tha, bắt tôi phải sống và viết.
Mùa lũ lụt thứ ba
Bảy
năm sau nữa tôi trong đội hình huấn luyện tân binh chuẩn bị đi biên giới Tây
Nam và phía Bắc. Năm đó chúng tôi đóng quân ở huyện Lạc thủy (Hà Sơn Bình)
thuộc vùng thượng nguồn sông Hoàng Long. Trời đang vào tiết thu, lúa sớm đã bắt
đầu ngậm sữa nhưng vẫn còn xanh thẫm trong thung lũng, sáng sương mờ uốn lượn
từ khe núi luồn ra thung lũng hòa với hơi nước bốc lên từ suối nước trong, đặc
tả tranh thủy mạc.
Những
ngày đi tập, giải lao ngồi bên suối chỉ mong may mắn gặp con gái Mường vén váy
lội qua suối nhưng toàn bà già con nít. Thằng Q nhà ở phố Lò Đúc đã trốn tập đi
rình về kể chuyện,…
Chúng
tôi ở nhà dân ven đồi, chân núi. Trời mưa sùi sụt từng cơn, từng cơn, quần áo
lính ẩm ướt, bếp anh nuôi hết củi đành phải chia mì mang về nhà dân, củi bếp
dân cũng ướt đành phải chẻ nhỏ, vót xơ ra để luộc nắm mỳ ăn qua ngày. Mỳ rất
nhiều mọt cũng phải ăn, buổi sáng tôi thấy "Hợp cóc" chui vào buồng
nhà dân, ăn như chuột, hỏi ra mới biết nó vào chỗ tối để lừa mắt, lừa miệng, dễ
nuốt.
Nhớ
mùa hận tình, Thủy quái ra đòn đánh Sơn
tinh. Mưa suốt ngày đêm, lính được dân cảnh báo lũ về phải ở yên trong nhà. Đêm
ấy mưa rất to, anh Nguyễn Đông A chính trị viên đại đội sang nhà, gọi tôi đi
cùng anh xuống trung đội 1 ở xa nhất, gần đập Bai để nắm tình hình và làm nhiệm
vụ của người lính. Anh A lính chống Mỹ, tái ngũ. Tôi lấy gậy, mặc áo dài quần
cộc, hai anh em ra đồng thì một màu trắng xóa mênh mông biển nước. Lúc này tôi
mới thấy thung lũng rất rộng. Lũ đã về. Theo con đường đất, chúng tôi đi được
một đoạn thì thấy nước đã phá tan một đoạn đường chừng ba mét. Tôi đưa gậy
xuống thấy nó trôi mạnh, cắm xuống thấy không sâu ngập đầu, anh A bấm đèn pin
"đom đóm đực" tôi nhìn thấy cọc (có lẽ chỗ này năm xưa đã vỡ, dân
đóng cọc đắp lại) . Cứ thế tôi bước đại xuống và sang bên kia tóm ngay cọc tre,
rồi đưa gậy kéo anh A sang. Sau này anh A khen tôi can đảm. Nghĩ mình đã qua
sông nước, phận người lính, hơn nữa tôi cũng lượng được sức nước. Tuy nhiên bất
trắc ai lường.
Hai
anh em đến nhà dân gần nhất, nước đã vào nền nhà ngập ống chân, ông già bảo ở
dưới đồng còn gia đình anh Lạng. Anh A đi các nhà dân khác, mấy chú lính chúng
tôi vừa lội vừa bơi xuống nhà anh Lạng. Cảnh tượng gần như 10 năm trước ở nhà
tôi. Anh Lạng là thương binh, chân anh đau cứng, nằm thẳng trên giường, nước đã
gần đến chiếu, vợ con đã kịp chạy đâu đó.
Mấy anh em hò nhau hỏi xem anh cần mang đồ gì lên núi, chẳng có gì. Tôi
lội trong nhà, thấy đàn ngan trắng bơi tung tăng trong ánh đèn dầu treo trên
cột, tôi tóm một con thử dìm nó xuống nước một lúc rồi buông tay, nó vọt lên
rất ngộ. Chúng tôi khênh cả giường, đưa anh đưa anh lên núi. Cũng may là nhà
anh rất gần chân núi. Hôm sau, thằng Q Lò Đúc nói: "lúc mày nghịch ngan
tao đã nghĩ tóm một con cho vào trong áo để thịt ăn cho đã, nhưng lại không
dám".
Nước
lũ rồi lụt cả tuần mới vơi. Thăng Trung béo ở trung đội 3 cứu được rất nhiều
gà, lợn cho dân, đơn vị định đề nghị khen thưởng thì có lệnh di chuyển sáp nhập
với đại đội khác. Trong mùa lũ bất hạnh đó, có chú lính trên đường về
"thăm nhà trái phép" đã mất mạng, rồi dân chúng loan tin nơi này, chỗ
kia chết ai. Thời ấy thông tin kém, không điện thoại dây, núi bao phủ, ở đâu
biết đó.
Sau
đó, chúng tôi tiếng tục đi cắt vớt lúa ở Gia Hưng, Gia Viễn, tôi được nấu cơm
cho tiểu đội, nào ngờ chưa hết tuần thì một thằng cắt vào tay, lại phải đi
thay. Nước rút, tôm, tép nhiều lắm, ốc nhồi ốc bươu đầy chợ, những ngày ăn mỳ
luộc (lính gọi nắm mỳ mỏng là "bẻng") với sắn đồi, với tôm xào khế
cho đến ngày đi chiến trường.
Trước
ngày đi chiến đấu, mấy đứa chúng tôi đi chơi trong vùng lũ, đến cầu đất chênh
vênh trên nhánh sông Hoàng Long ngắm dòng nước đã cạn bên vách đá, tạm biệt. Sau
đó, không biết thế nào đi vào xóm nhà dân, vào một nhà toàn bộ đội nữ ở đơn vị
khác. Trong ký ức tôi bây giờ là một nhà chật cứng toàn những gương mặt các em
18-19 trắng tròn nổi lên bộ quân phục mới nhưng vải nhàu, họ ngơ ngác nhìn
chúng tôi chào, họ ngồi họp trung đội, chúng tôi chào rồi đi, chẳng chuyện gì.
Sau
này thằng Thư nói: vị bùi của sắn năm ấy tuyệt vời (Thư bây giờ là sếp to ở
TCHC, trước làm giám đốc doanh nghiệp có vài ngàn công nhân, ở TP. Hồ Chí
Minh). Tôi thì nhớ mẹo thuật làm ốc nấu chuối của thằng Chiến dân Từ Liêm, rất ngon. (Chiến cũng là phó giám đốc công ty
ở Hà Nội, nó có vài ngàn mét vuông quanh sân Mỹ Đình, năm 1999 Chiến chỉ cho
tôi mua sào đất ven làng Phú Đô, tôi không kịp mua vì chê đất làm bún, cống
rãnh bẩn, nay đất lên giá 30 lần, nó bảo: " trời không cho mày rồi".
Tôi nghĩ trời không cho cái này thì cho cái khác). Hai năm sau trận lụt đầu
nguồn sông Hoàng Long, trời đã tặng tôi mạng sống khi vượt sông Giang biên giới
mùa lũ.
Mùa lũ thứ tư
Sông
biên giới mùa khô đến tháng Năm nước trong veo hiền hòa như bóng áo chàm xanh,
có đoạn cong như eo cô gái đẹp thế mà mùa lũ nước đỏ ngầu cuộn chảy cuốn cây
trôi băng băng, những chỗ có đá giữa lòng sông, nước nhảy chồm chồm như con thú
dữ bị xích. Tôi đã uống, tắm giặt, lấy nước tưới, bắt cá, hái quả roi, nô đùa
với nước, nằm trên doi cát ven sông, ngủ trong tiếng nước réo và… suýt bỏ mạng.
Đi
bầu cử cấp nào đó năm 1980, theo số đông, cả tiểu đoàn chúng tôi bên thung lũng
nhỏ phải vượt sông. Lúc đi, đơn vị khuyến cáo phải vòng sâu xa theo sườn núi
mom sông đến chiếc cầu sắt còn mấy thanh gỗ. Lúc về đã là trưa, nước có vẻ cạn,
có rất ít chú lính lười đi vòng nên gan dạ liều lĩnh tìm chỗ sông rộng nhất nhưng không chảy xiết
để bơi qua. Tôi đủ khôn ngoan nhìn các chiến sỹ cởi trần, cuộn áo lên đầu, cho
quần giầy dép vào mũ, bơi một tay sang sông. Vị trí xuất phát rất quan trọng để
nước trôi chéo sang bên kia. Một tốp đã sang sông.
Tôi
làm y chang, bơi gần đến bờ thấy nước cứ đẩy trôi không vào được bờ, nghĩ bỏ
mũ, vứt đồ thì lên bờ ở trần rất xấu hổ, cố bơi nhưng sức đuối, nước chảy xiết
lắm, thấy đá va chạm dưới chân. Tôi dồn hết sức, hai tay đập nước, đành chịu
ướt đồ, và đã mắc chân vào đá xước máu, nghỉ lấy sức rồi bơi, lội vào bờ, vắt
tái áo quần mặc về đến lán trại cũng khô. Sợ ứơt và xấu hổ chắc mất mạng vì ngay
phía dưới một đoạn ngắn, nước chảy xiết. Những người lính vô tư nhưng rất cẩn
thận để khỏi phải chết trôi cả lũ. Nhiều đứa bỏ không đi bỏ phiếu!
Chính
đoạn sông trước lán trại, năm đó đã cuốn trôi anh Thống lính 75. Hôm đó Thống
uống rượu đâu đó, về lán ngẫm nghĩ thế nào bơi sang sông làm "vệ
sinh", anh em can ngăn. Thống nói: "con vịt sông Đáy không bao giờ
chết đuối" . Anh qua sông và nước cuốn trôi, anh em nhìn thấy mà chịu
thua. Đại đội cử những thằng khỏe bơi sang sông không sao vì "chó dại có
mùa, lũ đi từng cơn". Anh em đi hai triền sông tìm đến chiều thì thấy Thống
mắc vào gốc cây đầy rễ chùm cách lán không xa. Nhiều người bảo may, không thì
trôi về bên kia biên giới mất xác.
Đắp chiếu, thắp hương cho anh qua đêm, sáng sau quân pháp trung đoàn xuống
làm biên bản. Tôi và năm chiến sỹ chép biên bản bên tử thi. Nhìn thấy anh cứ to
dần trong lớp chăn, chiếu. Chiều, đưa Thống lên núi ngay sau lán trại. Những
người lính đồng hương với anh đập đầu xuống đất khóc lóc, gào thét rồi lặng lẽ
về. Chiều muộn ăn cơm với Ban chỉ huy đại đội, cơm có thịt hộp, mâm chõng tre
đặt ngay gần chỗ Thống trương phồng trong đêm qua và sáng nay, tôi gượng mấy
miếng mướp luộc rồi chuồn sớm về lán tiểu đội mình.
Mãi
sau này tôi gặp một anh sỹ quan ở Sư đoàn, anh nói: lính tử thương vì những tai
nạn đâu đâu gọi là "quân số tiêu hao tự nhiên". Không ai lường, những
lần xe đổ, đạn tự nổ, súng cướp cò, lính bắn nhau, dây cháy chậm ngắn quá, chọc
vào kíp mìn, đá lăn, đánh mìn đá bay, ốm đau, say sắn, ong đốt, rắn cắn, chó
dại khợp, leo cây té ngã, đói lả, uống rượu đánh nhau, bắn nhầm, ngã xuống vực,
phải bỏng do nấu cơm, luộc sắn trong két đại liên Mỹ (loại này có zoăng chặt,
ngâm nước 30 năm viên đạn trong két vẫn sáng bóng)… cũng phần nhiều do sơ ý
như tham gia giao thông hiện nay. Đôi
khi bảo đó là số trời, ừ là số đấy. Trời bảo, ai nghe người ấy được.