Chủ Nhật, 26 tháng 7, 2015

Ô tô thương hiệu “đặc hay rỗng”?

Ô tô thương hiệu “đặc hay rỗng”?

>>Mô hình quả táo (nội địa hóa sản phẩm xuất khẩu)

 

 Ông Bùi Ngọc Huyên, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty Cổ phần Ôtô Xuân Kiên (Vinaxuki) khát vọng ô tô thương hiệu Việt

Trong một bàn tròn, có nhiều ý kiến quanh việc nội địa hóa ô tô sản xuất tại Việt Nam? Nội địa hóa với cấp độ “đặc hay rỗng” ở thương hiệu Việt hay ngoại là vấn đề đáng quan tâm! Các chuyên gia cho rằng: Các doanh nghiệp ở Việt Nam tiếp tục tăng tỷ lệ nội địa hóa cả ô tô thương hiệu Việt và thương hiệu ngoại sản xuất tại Việt Nam.
Ông Lưu Minh Đức cán bộ ngành Công Thương Hà Nội cho rằng : Ô tô Trường Hải đi theo hướng hiệu quả, chú trọng đầu ra của sản phẩm, chấp nhận thương hiệu ngoại nhưng được thiết kế theo phong cách mới phù hợp với người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Ông cũng tỏ ra khâm phục ý chí của Tổng giám đốc Vinaxuki theo đuổi dự án thương hiệu ô tô Việt Nam, Vinaxuki dự định năm nay sẽ xuất xưởng dòng xe Việt.
Một cán bộ ở Viện chính sách công nghiệp đưa ra các mô hình chiến lược phát triển ô tô: Mã Lai theo hướng nội địa hóa với dòng xe Proton để giành lại thị phần trong nước; Thái Lan có nhiều hãng sản xuất với nhiều thương hiệu, chú trọng sản xuất phụ tùng cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Việt Nam cần lựa chọn những ưu điểm của hai mô hình để có thương hiệu ô tô Việt Nam và nội địa hóa một số thương hiệu ngoại đáp ứng nhu cầu của tầng lớp trung lưu ngày càng lớn. Ông lưu ý một dòng xe phổ dụng đa năng với 7 chỗ ngồi, tiết kiệm năng lượng, sử dụng nhiên liệu sinh học, chạy điện!
Nội địa hóa ô tô ở ta sau 10 năm chỉ đạt dưới 10% thấp hơn rất nhiều so với mức 30-38% mà các công ty cam kết. Điều đó được giải thích bằng nhiều lí do, từ năng lực của doanh nghiệp, đến cơ chế khuyến khích, chính sách nhập khẩu,… Những kinh nghiệm nội địa hóa ô tô của Hàn Quốc những năm 80 hầu như khó áp dụng!
Vinaxuki theo đuổi giấc mơ ô tô thương hiệu Việt với rất nhiều khó khăn về đầu tư công nghệ, nguồn nhân lực, cần sự hỗ trợ tích cực từ nhiều cơ quan quản lí nhà nước, năng lực vận động của Công ty. Trong phân khúc thị trường, ô tô thương hiệu Việt có chỗ đứng vững bởi không phải ai cũng sính hàng ngoại. Thách thức lớn nhất đó là chất lượng sản phẩm, về thiết kế kiểu dáng, an toàn, tiện dụng, giá cả, bảo hành,…đặt lên dự án của Vinaxuki. Điểm nhấn là tạo dựng được thiết kế mới, thương hiệu Việt, tiếp đó là tăng nhanh tỷ lệ nội địa hóa từ sản xuất thép đến chế tạo máy và các linh kiện, phụ tùng... Vinaxuki phấn đấu đến năm 2013, sẽ tự sản xuất được động cơ ô tô. Mục tiêu của Công ty là nâng tỷ lệ nội địa hóa lên trên 70% và tăng cường hợp tác với nhiều công ty Nhật Bản để sản xuất ra các linh kiện, phụ tùng và ô tô theo công nghệ Nhật mang nhãn hiệu Vinaxuki.
Chấp nhận thương hiệu ngoại nhưng tăng dần tỷ lệ nội địa hóa theo một lộ trình để mở rộng thị phần và giá trị gia tăng trong nước. Trong nền kinh tế hội nhập, các sản phẩm được cấu thành từ nhiều hãng chứ không thể khép kín. Có những hãng chỉ sản xuất sản phẩm trung gian (phụ tùng) với tính chuyên môn cao có doanh số lớn. Các thương hiệu lớn xu hướng chuyển thương hiệu đi đến các thị trường có chi phí sản xuất thấp, bán được nhiều hàng...
Quyết định 12/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ sẽ đáp ứng phần nào cho sự lựa chọn “thương hiệu đặc” hay “thương hiệu rỗng”. Những chiếc ô tô thương hiệu Việt đã và đang tiến ra thị trường trong nước cùng với những nhà máy cơ khí của người Việt “đặc hóa” dần các thương hiệu ngoại đang sản xuất tại Việt Nam. Sau cùng, các chuyên gia cho rằng: Các doanh nghiệp ở Việt Nam tiếp tục tăng tỷ lệ nội địa hóa cả ô tô thương hiệu Việt và thương hiệu ngoại sản xuất tại Việt Nam.
TS. Nguyễn Mạnh Hùng  Bộ Công Thương.

Văn bản liên quan :
Quyết định 12/2011/QĐ-TTg ngày 24/02/2011 của Thủ tướng Chính phủ về khuyến khích phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ.
Quyết định 49/2010/QĐ-TTg ngày 19/7/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển và Danh mục sản phẩm công nghệ cao được khuyến khích phát triển.
Quyết định 177/2004/QĐ-TTg ngày 5/10/2004 của Thủ tướng Chính phủ về “phê duyệt Chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020” 
Quyết định 43/2006/QĐ-BTC ngày 29/08/2006 về việc bãi bỏ chính sách thuế theo tỷ lệ nội địa hoá đối với các sản phẩm, phụ tùng thuộc ngành cơ khí - điện - điện tử
Quyết định 28/2004/QĐBKHCN ngày 01/10/2004 của Bộ trưởng Bộ khoa học và Công nghệ về phương pháp xác định tỷ lệ nội địa hóa đối với ôtô.
Quyết định 05/2005/QĐ-BKHCN ngày 11/5/2005 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định số 28/2004/QĐ-BKHCN
ngày 01/10/2004 về phương pháp xác định tỷ lệ nội địa hoá đối với ôtô
Quyết định 186/ 2002/QĐ-TTg ngày 26/12/2002 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển ngành cơ khí Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn tới 2020

>>
Mô hình quả táo (nội địa hóa sản phẩm xuất khẩu)

Thứ Ba, 21 tháng 7, 2015

Thư gửi Tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ Hà Nội, ngày 16 tháng 2 năm 1946



Ghi chú: Các bài HCM thư từ với HCQ Hoa Kỳ lấy từ nguồn  (HCM toàn tập, Tập 4, 1945-1946,  Nxb CTQG năm 2000) . Có giá trị tham khảo nhanh, trích dẫn xin mời đến nguồn trên.

Thư gửi Tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
Hà Nội, ngày 16 tháng 2 năm 1946
Hồ Chí Minh, Chủ tịch Chính phủ lâm thời
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hà Nội
Gửi Tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Oasinhtơn, D.C

Ngài Tổng thống kính mến,

Nhân dịp này tôi xin được cảm ơn Ngài cùng nhân dân Hoa Kỳ về sự quan tâm có lợi cho các dân tộc thuộc địa mà các đại diện của Ngài tại tổ chức Liên hợp quốc đã bày tỏ.

Nhân dân Việt Nam chúng tôi, ngay từ năm 1941, đã đứng về phe các nước Đồng minh và chiến đấu chống lại người Nhật và những kẻ cấu kết với họ là bọn thực dân Pháp.

Từ năm 1941 đến năm 1945 chúng tôi đã chiến đấu gian khổ và duy trì được là nhờ chủ nghĩa yêu nước của đồng bào chúng tôi, và nhờ những cam kết của các nước Đồng minh tại Yanta, Xan Phranxixcô và Pôxđam.

Khi người Nhật bị đánh bại vào tháng 8-1945, toàn bộ lãnh thổ Việt Nam được thống nhất lại dưới một Chính phủ Cộng hoà lâm thời và Chính phủ này đã lập tức đi vào hoạt động trong năm tháng, hòa bình và trật tự được lập lại, một nền Cộng hoà Dân chủ được thiết lập trên những cơ sở pháp lý, và đã dành cho các nước Đồng minh sự giúp đỡ thoả đáng trong việc thực hiện sứ mệnh giải giáp của họ.

Nhưng thực dân Pháp, những kẻ trong thời chiến đã phản bội cả các nước Đồng minh lẫn nhân dân Việt Nam, đã quay lại và đang tiến hành một cuộc chiến tranh tàn sát và không thương xót đối với chúng tôi hòng lập lại ách thống trị của họ. Cuộc xâm lăng của họ đã mở rộng ở Nam Việt Nam và đang đe doạ chúng tôi ở Bắc Việt Nam. Chỉ một bản tường trình vắn tắt về những tội ác và những vụ tàn sát mà họ gây ra mỗi ngày ở vùng chiến sự cũng đã có thể kín nhiều tập giấy rồi.

Sự xâm lược này là trái với những nguyên tắc của luật pháp quốc tế và trái với những cam kết của các nước Đồng minh trong chiến tranh thế giới. Nó là một sự thách thức đối với thái độ đáng kính trọng mà Chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ đã bày tỏ trước, trong và sau chiến tranh. Nó đối chọi với lập trường vững chắc mà Ngài đã nêu lên trong bản tuyên bố mười hai điểm và với tính cao thượng và khoan dung lý tưởng mà phái đoàn của Ngài gồm các ông Byrnes, Stetlitus và J.F.Dulles đã bày tỏ trước Đại hội đồng Liên hợp quốc.

Cuộc xâm lược của Pháp đối với một dân tộc yêu chuộng hoà bình là một mối đe doạ trực tiếp đối với an ninh thế giới. Nó hàm chứa sự đồng lõa, hay ít ra cũng là sự nhắm mắt làm ngơ của những nền Dân chủ vĩ đại. Liên hợp quốc phải giữ lời hứa. Họ phải can thiệp nhằm ngăn chặn cuộc chiến tranh phi nghĩa này, và để tỏ ra rằng trong thời bình họ có ý định thực hiện những nguyên tắc mà vì chúng, họ đã chiến đấu trong thời chiến.

Nhân dân Việt Nam chúng tôi, sau quá nhiều năm chịu sự cướp bóc và tàn phá, mới chỉ đang bắt đầu công cuộc xây dựng. Cần phải có an ninh và quyền tự do, trước hết là để đạt được phồn vinh và phúc lợi trong nước, và sau đó là góp phần nhỏ của mình vào việc xây dựng lại thế giới.

An ninh và tự do chỉ có thể được bảo đảm bằng sự độc lập của chúng ta đối với bất kỳ một cường quốc thực dân nào, và bằng sự hợp tác tự nguyện của chúng ta với tất cả các cường quốc khác. Chính là với niềm tin vững chắc này mà chúng tôi yêu cầu Hợp chủng quốc với tư cách là những người bảo vệ và những người bênh vực Công lý thế giới, thực hiện một bước quyết định ủng hộ nền độc lập của chúng tôi.

Điều mà chúng tôi đề nghị đã được trao cho Philippin một cách quý báu. Cũng như Philippin, mục tiêu của chúng tôi là độc lập hoàn toàn và hợp tác toàn diện với Hoa Kỳ. Chúng tôi sẽ làm hết sức mình để làm cho nền độc lập và sự hợp tác này trở nên có lợi cho toàn thế giới.

Xin kính chào Ngài Tổng thống.
Kính thư
Hồ Chí Minh

United States - Vietnam Relations
1945-1967, U.S. Government printing
office, Washington, 1971, p.95-97.


Trả lời các Nhà báo về lời tuyên bố mới đây của Tổng thống Mỹ TƠRUMAN (đăng Báo Cứu quốc ngày 2-11-1945)



Trả lời các Nhà báo về lời tuyên bố mới đây của Tổng thống Mỹ  TƠRUMAN

Cứ xét 12 điểm chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ này, thì đều có ý nghĩa công minh chính trực cả, nhưng riêng năm điểm có quan hệ mật thiết với các dân tộc nhược tiểu trên thế giới. 

Điểm thứ nhất: "Hoa Kỳ không nghĩ tới một sự mở mang bờ cõi nào vì những mục đích ích kỷ". Về điều này từ trước đến nay dân tộc Việt Nam đã hiểu rõ cái chính sách quang minh của Mỹ, nhất là từ ngày Mỹ thừa nhận Phi Luật Tân độc lập thì dân Việt Nam càng tin tưởng cái chính sách rộng rãi của Mỹ.
 
Điểm thứ hai: "Hoa Kỳ tin tưởng vào sự trở lại chủ quyền của hết thảy các dân tộc đã mất chủ quyền ấy bởi cường lực". Nước Việt Nam là một trong những nước đã bị mất chủ quyền bởi cường lực của Pháp. Và dân Việt Nam đã giành lại cái chủ quyền ấy không những ở tay Pháp mà cả ở tay Nhật nữa. Cái sự tin tưởng của Mỹ đã thành một sự thực ở Việt Nam, cái sự tin tưởng của Mỹ càng giúp cho cái sự thực ấy thêm vững vàng. 

Điểm thứ ba: "Hoa Kỳ không ưng thuận một sự thay đổi lãnh thổ nào mà không được chính các dân tộc đương sự thoả thuận". Về điều này, dân Việt Nam đã đoàn kết nhất trí không bằng lòng bọn thực dân Pháp trở lại. Trong Nam Bộ đã bắt đầu kháng chiến và toàn quốc sẽ cương quyết kháng chiến đến cùng, không để bọn thực dân Pháp trở lại. Dân chúng Ai Lao và Cao Miên cũng vậy. Toàn thể các dân tộc Đông Dương đều kịch liệt phản đối thực dân Pháp. 

Điểm thứ tư: "Tất cả các dân tộc đương chuẩn bị tự trị được tự chọn lấy chính thể của họ". Dân tộc Việt Nam chẳng những chuẩn bị mà đã thực hành tự trị, đã có chính phủ theo chế độ dân chủ cộng hoà và đang sửa soạn triệu tập toàn quốc đại hội để thông qua hiến pháp dân chủ cộng hoà. 

Điểm thứ năm: "Không một chính phủ nào thành lập bằng sự áp bức, bằng vũ lực trên một dân tộc khác, lại sẽ được Hoa Kỳ thừa nhận cả". 

Hiện giờ bọn thực dân Pháp đương áp bức dân tộc Việt Nam bằng võ lực để mưu lập lại cái chế độ nô lệ của họ trên đất Việt Nam. Bọn thực dân Pháp lại cho vấn đề này là vấn đề nội bộ của họ, kỳ thực nó là một vấn đề quốc tế, vì từ năm 1940 Pháp đã thành tay sai của Nhật và đến tháng 3 năm 1945 Pháp đã trao hoàn toàn chủ quyền cho Nhật. Chẳng những thế, bọn thực dân Pháp đã giúp cho Nhật tấn công vào Trân Châu Cảng (Pearl Habour)18, vì chính ngày hôm ấy, bọn thực dân Pháp ở Việt Nam đã ký điều ước bí mật để cho Nhật đủ điều kiện gây chiến với Mỹ làm cho Mỹ tổn thiệt rất nhiều.

Vì những lẽ đó, nhân dân Việt Nam đối với lời tuyên bố của Tổng thống Tơruman rất hoan nghênh và chắc rằng nước Mỹ sẽ làm cho những lời tuyên bố ấy thực hiện ngay, nó đặt nền móng cho hoà bình và hạnh phúc của nhân loại và trước hết là cho các dân tộc nhỏ yếu. 

Báo Cứu quốc, số 81, ngày 2-11-1945.

Điện Gửi Bộ trưởng ngoại giao Hoa kỳ,



Điện Gửi Bộ trưởng ngoại giao Hoa kỳ,
Oasinhtơn, D.C
Hồ Chí Minh, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Cộng hoà Việt Nam gửi Ngài Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Oasinhtơn, D.C.

Nhân dịp khai mạc Hội nghị Oasinhtơn về Viễn Đông, chúng tôi lấy làm tiếc về sự vắng mặt của đoàn đại biểu Việt Nam. Một lần nữa chúng tôi bác bỏ mọi quyền của người Pháp phát biểu nhân danh nhân dân Việt Nam. Dưới sự yểm trợ của các toán quân Anh - ấn và Nhật Bản, Pháp đã tiến hành một cuộc xâm lược đối với nước Cộng hoà Việt Nam nhằm áp đặt sự thống trị của họ, đã cố tình vi phạm các nguyên tắc được đề ra trong Hiến chương Đại Tây Dương và Hiến chương Xan Phranxixcô. Nhân dân Việt Nam đang chiến đấu hơn một tháng nay bất chấp sự đàn áp đẫm máu của các toán quân Anh - ấn, Pháp và Nhật Bản, đã tuyên bố nguyện vọng của họ là được sống trong tự do và độc lập, trong sự nghiệp xây dựng dân chủ. Nhân dân Việt Nam bày tỏ niềm hy vọng chân thành rằng tất cả các dân tộc tự do trên thế giới, đang thực hiện ý tưởng cao quý về lòng khoan dung và nhân đạo thể hiện trong diễn văn của Tổng thống Tơruman, sẽ công nhận nền độc lập của nước Cộng hoà Việt Nam và đặt dấu chấm hết cho cuộc xung đột giết chóc ở Nam Việt Nam.

Kính
Hồ Chí Minh
-----
United States - Vietnam Relations
1945-1967, U.S. government printing
office, Washington, 1971, p.92.

Thư gửi bộ trưởng ngoại giao Hoa kỳ Giêm biếc nơ Hà Nội, ngày 1 tháng 11 năm 1945



Thư gửi bộ trưởng ngoại giao Hoa kỳ Giêm biếc nơ
Hà Nội, ngày 1 tháng 11 năm 1945
Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hồ Chí Minh
Kính gửi Ngài Giêm Biếcnơ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Oasinhtơn, D.C.
Thưa Ngài,
Nhân danh Hội văn hoá Việt Nam, tôi xin được bày tỏ nguyện vọng của Hội, được gửi một phái đoàn khoảng năm mươi thanh niên Việt Nam sang Mỹ với ý định một mặt thiết lập những mối quan hệ văn hoá thân thiết với thanh niên Mỹ, và mặt khác để xúc tiến việc tiếp tục nghiên cứu về kỹ thuật, nông nghiệp cũng như các lĩnh vực chuyên môn khác.
Nguyện vọng mà tôi đang chuyển tới Ngài là nguyện vọng của tất cả các kỹ sư, luật sư, giáo sư Việt Nam, cũng như những đại biểu trí thức khác của chúng tôi mà tôi đã gặp.
Trong suốt nhiều năm nay họ quan tâm sâu sắc đến các vấn đề của nước Mỹ và tha thiết mong muốn tạo được mối quan hệ với nhân dân Mỹ là những người mà lập trường cao quý đối với những ý tưởng cao thượng về công lý và nhân bản quốc tế, và những thành tựu kỹ thuật hiện đại của họ đã có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với giới trí thức Việt Nam.
Tôi thành thực hy vọng kế hoạch này sẽ được thuận lợi nhờ sự chấp thuận và giúp đỡ của Ngài, và nhân dịp này tôi xin gửi tới Ngài những lời chúc tốt đẹp nhất.
Chủ tịch
Hồ Chí Minh
United States - Vietnam Relations
1945 - 1967, U.S. government printing
office, Washington, 1971, p. 90.