Thứ Sáu, 31 tháng 1, 2014

NGÀY ẤY



Tặng Ch.

Mười năm gió tuyết bơ phờ
Ði xa bạn nhớ đồng quê bản làng
Bạn tìm đến chốn cao sang
rừng phong thôn ổ thu vàng nước Nga

Hai mươi năm mình chia xa
Một đêm phương Bắc tìm nhà người dân
Cầu mong tiếng gõ phép thần
Vừng ơi! im lặng… thất thần quay ra

Mười năm tôi sống không nhà
Kinh thành cát bụi nhà ga bến tầu…


Một đêm ngủ bờ vực sâu?
ở rừng phương Bắc kể câu chuyện tình.

Bạn mơ màng bóng em xinh
Tôi vô tư ngủ, giật mình sương đêm
Bạn về nghiên bút mài thêm
Mẹ tôi vơi nhẹ nỗi niềm sợ con…

(năm 2001)

                                    Nhà thơ Nguyễn Đình Chiến (1952 -2014)

Gặp lại các em ( thơ Nguyễn đình Chiến)

(Tưởng nhớ một người bạn trong chiến tranh Biên giới phía Bắc, ra đi vào ngày cuối cùng năm Quý Tỵ, về với đồng đội chiến đấu hy sinh tại Lạng Sơn - NMH)
           
           Nhà thơ Nguyễn đình Chiến



              

Gặp lại các em
Tác giả: Nguyễn Đình Chiến

Các em nằm yên nghỉ bên sông
Những cánh hoa hồi phủ thơm mặt đất
Anh về thăm mà khôn cầm nước mắt
Trời biên cương xanh ngắt
Mây trắng bồi hồi đỉnh chốt người đi
Sông Kỳ Cùng đò đang đợi bên kia
Nước ngập cầu Khánh Khê, xe ca chưa sang được

Anh vòng qua lối tắt
Tìm các em trong sắc cỏ xanh rì
Sau cơn mưa nghi ngút nắng hè
Để bóng anh trùm lên từng ngôi mộ
Hàng bia nhỏ không còn nhìn rõ chữ
Nhưng gương mặt nào anh cũng nhớ y nguyên
Anh thì thầm gọi tên mãi từng em
Như gọi tên những người thương yêu nhất
Những đứa em chung chiến hào giữ đất
Mùa xuân qua đã ngã xuống nơi này

Chưa tròn tuổi quân nhưng các em sống trọn cuộc đời
Với đồng đội, với tình yêu biên giới
Các em ơi có nghe anh gọi
Cả đội hình đơn vị sắp qua đây
Mười năm hành quân qua bao chặng đường dài
Nay đứng trước các em anh thấy mình rõ nhất
Thấy tan đi những suy tư vụn vặt
Thấy cháy bùng bao ước nguyện thiêng liêng
Cho anh về sống lại những đêm
Đốt ngọn lửa trong gió mùa đông bắc
Ôm tấm chăn chiên còn vương bụi đất
Đi dọc chiến hào nhường hơi ấm cho em
Vẫn còn đây ôi tiếng hát hồn nhiên
Đêm đẩy mảng cùng anh vượt thác
Cả tiểu đoàn qua sông ào ạt
Em đập sóng thìa lìa cho dậy ánh trăng vàng

Các em đi khi mười tám tuổi xuân
Và để lại những trái tim trong trắng
Ở Đồng Đăng, ở Thâm Mô, Chậu Cảnh
Bên hầm sâu, trên chiến lũy pháo đài *
- Đất của mình chứ đất của ai,
Phải xông lên mà giữ!

Tiếng các em thét gọi nhau trong chiến hào khói lửa
Còn cháy lòng bao chiến sỹ xung phong…

Thôi các em nằm yên
Quân ta đang tiến về Cao lộc
Đường bình độ cả trung đoàn thầm nhắc
Phải giữ yên mảnh đất các em nằm
Lửa cháy rồi trên cao điểm Bốn trăm.

* pháo đài, theo tôi là Pháo Đài đúng hơn, một địa danh lính gọi tắt. Pháo đài Đồng Đăng (Lạng Sơn) xảy ra chiến sự ác liệt tháng 02-1979


----
Đã cùng tôi
Về quê hương anh Hoàng Văn Thụ

Thứ Năm, 9 tháng 1, 2014

LỰA CHỌN NGÀNH NGHỀ DỰ ÁN ĐẦU TƯ

TS. Nguyễn Mạnh Hùng

Xu hướng đa ngành trong kinh doanh nhiều khi đi trước nhu cầu cầu đa dạng của tiêu dùng .Trong ba khu vực của nền kinh tế ( nông nghiệp, công nghiệp và xây dựng, dịch vụ) liên tiếp được phân ra các ngành hẹp, nhiều ngành hẹp ngày càng có vị trị trong nền kinh tế.Các nước phát triển cao,khu vực dịch vụ tăng nhanh; các nước đang phát triển khu vực sản xuất công nghiệp được chú trọng, nếu xao những lợi thế nông nghiệp là nguy cơ  tụt hậu của các nước này,
Marketing hiện đại không chỉ là sản xuất ra sản phẩm dịch vụ  đã có thuộc  nhu cầu hiện hưũ, mà nó tìm kiếm khả năng sản xuất ra sản phẩm và dịch vụ mới đến ngạc nhiên rồi đựợc  thị trường chấp nhận với quy mô lớn,ví dụ như tin học ngành sinh sau nhưng phát triển nhanh, trong tương lai. Các dịch vụ bảo vệ môi trường ngày càng có thị trường lớn . Ngành phụ hôm nay nhưng là ngành chính của hôm sau. Đây chính là hướng phát triển không giới hạn của đầu tư phát triển, các công ty lớn tiêu tốn hàng tỷ đô la mỗi năm của cho nghiên cứu triển khai.
Nền kinh tế không chấp nhận phát triển dàn đều mà chỉ phát triển  được trong mối liên kết mềm mại ,trong sự phân công theo  hướng chuyên môn hoá và hiệp tác. Thế giới có khoảng 4 vạn công ty lớn đi đầu trong mọi lĩnh vực nhưng thành quả mà nó gặt hái được là nhờ mối liên kết với hàng triệu công ty vừa và nhỏ. Xu hướng đa dạng hoá ngành nghề thích ứng với các công ty lớn, các công ty nhỏ nên chọn một ngành thích hợp nhưng cũng phải tính đến đa dạng hoá sản phẩm trong ngành mình chọn.
Nhiều dự án đầu tư và các công ty mới thành lập người ta hỏi vốn đâu? Vốn bằng tiền cho các dự án chỉ là khái niệm có tính quy ước, quan trọng hơn là việc tìm ra các ngành nghề  dự án sử dụng đồng vốn đó mang lại hàng hoá và dịch vụ được thị trường chấp nhận và có lãi  bằng tiền để tái  đầu tư.
Chúng tôi nhiều lần đựơc tiếp xúc với các nhà đầu tư  tìm hiểu về thị trường cho dự án , chi phí nghiên cứu này không nhỏ để ra kết luận có hay không đầu tư. Những nhà đầu tư nhạy cảm  giàu kinh nghiệm không nhiều, họ có cách phân biệt lựa chọn thông tin, tín hiệu về thị trường. Có nhiều nhà đầu tư theo mốt, phong trào, chỉ nhìn, nghe nói về lợi ích của kinh doanh sản phẩm này , dịch vụ kia rồi chạy theo cho đến khi thua lỗ mới nhận ra sai lầm. Các công ty tư vấn đầu tư đưa ra nhiều nghiên cứu, nhận xét khách quan  nhưng đó là  cái đầu của nhà tư vấn, không phải của nhà đầu tư.
            Nghiên cứu mối liên hệ giữa các ngành sản xuất để lựa chọn lĩnh vực đầu tư khá phức tạp, những kết quả sau đây có thể tham khảo:
            1.Chỉ số liên kết kinh tế :Hai nhà kinh tế  Mỹ, Yotopoulos và Nugent nghiên cứu mối liên kết kinh tế bằng  các khái niệm :
“ chỉ số liên kết phía trước”là ngành  này sản xuất 1 đồng sẽ tạo thêm mấy đồng (chỉ số) cho ngành khác sử dụng sản phẩm này;
“chỉ số liên kết phía sau” cho biết ngành này sản xuất 1 đồng sẽ tạo thêm mấy đồng ( chỉ số ) cho những ngành cung cấp đầu vào của sản phẩm này.
Dựa vào số liệu thống kê của Chi Lê, Hy Lạp, Hàn quốc, Mê hi cô, Tây Ban Nha, hai ông đã tính được chỉ số chung cho 18 ngành và xếp thứ tự những ngành có  tổng chỉ số liên kết phía sau lớn cần ưu tiên phát triển vì nó có đầu vaò lớn tức là tạo ra công việc làm và thu nhập cho nhiều ngành khác. Thứ tự : Thuộc da, kim loại cơ bản; may mặc; dệt; thực phẩm; giấy; hoá chất và hoá dầu; sản phẩm kim loại và máy móc; gỗ,bàn ghế; xây dựng; in; các sản phẩm công nghiệp khác; cao su; sản phẩm phi kim loại; nông nghiệp; điện nước; khai mỏ;dịch vụ.
Những ngành cung cấp đầu vào cho nhiều ngành : Kim loại cơ bản; phi kim loại; giấy; thuộc da; điện nước; hoá chất và lọc dầu; dệt vải,gỗ bàn ghế; in.
 Một số nghiên cứu khác  sau này cho kết quả không khác,riêng ngành thuộc da đã bị các ngành khác thay thế quy mô.
2. Nghiên cứu hệ thống tài khoản quốc gia ở Việt Nam,các chuyên gia thống kê lần đầu đưa ra cơ cấu giá trị sản xuất (doanh thu của các ngành kinh doanh, hay chi tiêu quản lí nhà nước ,đoàn thể)
Nhận xét: Từ phương pháp tính  Giá trị gia tăng = Giá trị sản xuất - chi phí trung gian; Chi phí trung gian gồm chi phí vật chất và chi phí dịch cụ, các nhà đầu tư căn cứ vào mục tiêu kinh doanh, các ưu thế của công ty và khảo sát cụ thể thị trường để lựa chọn ngành đầu tư:
              Những ngành có chi phí trung gian thấp sẽ có giá trị gia tăng cao cần được các nhà đầu tư chú ý khi khởi sự công ty ,nhưng ngành này thường có giá trị sản xuất (doanh thu ) vừa phải,lợi nhuận tuyệt đối sau thuế thấp. Các công ty  trong ngành này cần nghiên cứu khả năng tham gia các hợp đồng phụ với các công ty có chi phí trung gian cao
            Những ngành chi phí trung gian cao sẽ có giá trị gia tăng thấp nhưng tổng giá trị sản xuất lớn và tổng lợi nhuận sau thuế cao ,có mối liên kết sau,trước cao,là cơ hội cho các công ty khác tham gia hợp đồng phụ công nghiệp, và dịch vụ
            Chi phí trung gian bao gồm: Nguyên vật liệu ,nhiên liệu,động lực, chi phí vật chất khác; chi phí  dịch vụ gồm : vận tải,cước bưu điện,các dịch vụ thuê ngoài,...Đây là những chi phí  có giá trị lớn, sử dụng thường xuyên mà các công ty phải tiếp cận để kí  hợp đồng phụ .
3 .Một hướng tiếp cận khác thông qua phân tích cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu,tỷ trọng giá trị sản xuất của hàng xuất khẩu có nguồn gốc  chi phí trung gian ở trong nước hay nhập khẩu, thông tin về hàng xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu chính  (thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Hà nội, Đà Nẵng,..) và trên toàn quốc là cơ sở dữ liệu về lựa chọn ngành nghề đầu tư.
Khi thị trường xuất hiện nhu cầu hàng hoá  dịch phải nhập khẩu hoặc năng lực sản xuất trong nước thấp, các công ty năng động sẽ nghiên cứu kỹ hàng hoá này về mặt hiện vật và giá trị, đưa ra phương án sản xuất tiêu  dùng trong nước và xuất khẩu, các nước công nghiệp tiến tiến từng ngạc nhiên trước khả năng này của các nước công nghiệp mới. Tại Việt Nam, nhiều công ty đãsản xuất thiết bị phụ tùng,hàng hoá  thay thế nhập khẩu ,số tiền tiết kiệm  đầu tư và trong tiêu dùng có ý nghĩa trong cạnh tranh.
            Số liệu về cơ cấu nhập khẩu từ năm 1991 đến gần đây: Máy móc thiết bị và phụ kiện chiếm 33,1 % (tăng ); nguyên nhiên vật liệu 56,1% ( giảm chậm); hàng tiêu dùng  10,8 % (giảm chậm). Những sản phẩm nhập khẩu chủ yếu : xăng dầu, thép,linh kiện điện tử, phân bón, sợi dệt.
            Xuất khẩu: Nông lâm nghiệp và thuỷ sản khoảng 45% ( giảm nhẹ );công nghiệp và khoáng sản 36 % ( tăng khá); dầu thô 18,5% (giảm nhẹ ).Ngôi thứ các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu từ cao xuống thấp: Dầu thô, dệt may, điện thoại (2010),  giầy dép, thuỷ sản; bốn mặt hàng này có tốc độ tăng cao ,chiếm trên 50% tổng kim ngạch ; tiếp đến là gạo, cà phê, cao su.
            Các nhà đầu tư hiểu rằng họ có thể không  khép kín chu trình  tạo sản phẩm nhưng sẽ đầu tư vào   một khâu của quá trình sản xuất làm gia tăng giá trị, đặc biệt là những ngành công nghiệp chế biến sâu có nguyên liệu trong nước sẽ tạo ra sản phẩm xuất khẩu có giá trị cao gấp nhiều lần xuất khẩu thô; liên doanh với nước ngoài sản xuất các mặt hàng xuất khẩu, mặt hàng thay thế nhập khẩu.
            4.Một hướng khác khá quan trọng là khi các cơ quan nhà nước định hướng và thẩm định dự án đầu tư cần cung cấp thông tin chung, định hướng về thị trường, chính sách đầu tư để các doanh nghiệp cân nhắc, lựa chọn.Gần đây bộ Kế hoạch và Đầu tư đã công bố danh mục máy móc thiết bị , phương tiện vận tải trong nước sản xuất được, công bố các nhóm ngành, các dự án khuyến khích đầu tư, tuy nhiên dung lượng cụ thể  của thị trường và công suất các dự án là do các chủ dự án tính toán.
            Những chuyên gia giỏi có nhiều khuyến cáo đáng lưu ý.Thẩm quyền quản lí nhà nước có hoặc không phê duyệt dự án là có căn cứ. Một số nhà đầu tư nước ngoài có ý kiến mong nhà nước ta ngăn chặn các dự án tương tự để bảo vệ thị trường nội địa cho họ. Đây là quyền của nước chủ nhà và chính sách đầu tư được điều chỉnh trên thông tin tổng quan về thị trường, các ý kiến  đó không thể chi phối. Nhà đầu tư  có bản lĩnh là phải chấp nhận , thích ứng với môi trường kinh doanh, luôn luôn chấp nhận cạnh tranh.
            Thành lập doanh nghiệp là quyền của chủ đầu tư về lựa chọn ngành nghề, cơ quan cấp đăng kí kinh doanh cần cho chủ đầu tư danh mục các công ty kinh doanh trong các ngành nghề cùng với các số liệu tổng hợp về xu hướng phát triển các ngành trong khoảng 5 năm gần đây. Một số nước thông tin này khá tốt, doanh nghiệp được cung cấp miễn phí hoặc lệ phí thấp khi sao chụp tài liệu.
            Thực tế hiện nay chúng ta chưa dư vốn , song cũng không hẳn thiếu vốn mà thiếu chủ đầu tư  biết sử dụng vốn và một cơ chế ,chính sách hỗ trợ đầu tư của Nhà nước để tăng niềm tự tin,cho các nhà doanh nghiệp, ủng hộ lòng dũng cảm, tính mạo hiểm chấp nhận rủi do.
            Việc các cơ quan quản lí nhà nước, các chuyên gia cần nghiên cứu sâu sắc, đánh giá kết quả đầu tư,và chuyển đổi cơ cấu đầu tư trong mối liên ngành sau mỗi kì kế hoạch 5 năm  rất có ý nghĩa trong việc hoạch định chính sách đầu tư. Nghiên cứu này phải có phương pháp mới chứ không thể là các báo cáo hành chính hay các đề tài nhỏ lẻ. Các doanh nghiệp cũng nên tự nghiên cứu quá trình đầu tư ở doanh nghiệp mình, rút kinh nghiệm, kiến nghị với Nhà nước và định hướng chiến lược kinh doanh.
5. Tính trung thực và khoa học về lựa chọn ngành nghề sản phẩm của dự án là nền tảng của tính mạo hiểm, nếu vì lí do riêng như chạy vốn, giải ngân, tìm kiếm lãi suất ưu đãi,vì một vị trí công việc hay bổng lộc trong quá trình đầu tư,... sẽ làm cho hiệu quả dự án đi vào hoạt động quá mỏng manh.
            Những sản phẩm dịch vụ có thị trường bền vững mặc dù có nhiều công ty đang tham gia chưa phải là đủ bởi cơ hội nâng cao chất lượng, hạ giá thành, thay đổi mẫu mã, tăng tính đa dụng sản phẩm, hoàn hảo dịch vụ luôn giành cho các nhà đầu tư. Các sản phẩm thuộc nhóm tiêu dùng của dân cư từ lâu là mục tiêu săn đuổi,gây sức ép của các nhà đầu tư bởi đây là nhu cầu không giới hạn, được thay đổi liên tục. Người ta có thể loại bỏ, làm mới hoàn toàn nhà ở, phương tiện giao thông, thiết bị, đồ dùng, thay đổi tập quán sinh hoạt.

Đơn vị : %

Ngành
Chi phí trung gian/ Giá trị sản xuất
Chi phí vật chât/
Giá trị sản xuất
Chi phí dịch vụ/
Giá trị sản xuất
Quốc doanh
Ngoài quốc doanh
Quốc doanh
Ngoài quốc doanh
Quốc doanh
Ngoài quốc doanh
1
Nông nghiệp
49,6
31,69
13,62
3,52
13,62
3,52
2
Lâm nghiệp
42,53
18,26
6,1
1,89
6,1
1,89
3
Thuỷ sản
47,27
40,01
3,52
7,09
3,52
7,09
4
Công nghiệp mỏ
59,57
7,75
11,45
1,8
11,45
1,8
5
Công nghiệp chế biến
63,24
59,32
1,74
2,43
1,74
2,43
6
Xây dựng cơ bản
67,61
63,46
7,82
3,43
7,82
3,43
7
Xây dựng của hộ cá thể

73,93

1,20

1,20
8
Điện,khí đốt,nước
58,38
44,85
0,66
3,44
0,66
3,44
9
Thương nghiệp,sửa chữa xe có động cơ
32,68
24,39
21,65
15,68
21,65
15,68
10
Khách sạn,nhà hàng
59,67
70,73
5,41
2,41
5,41
2,41
11
Vận tải ,kho bãi,thông tin,dịch vụ
30,25
33,75
6,42
12,49
6,42
12,49
12
Hoạt động kho bạc
33,17

20,79

20,79

13
Hoạt động ngân hàng
11,83

9,25

9,25

14
Bảo hiểm nhà nước
7,82

6,79

6,79

15
Hoạt động xổ số
26,11

25,61

25,61

16
Hoạt động khoa học,công nghệ
47,30

11,02

11,02

17
Giáo dục và đào tạo
35,26
22,47
18,14
10,20
18,14
10,20
18
Y tế và cứu trợ xã hội
32,50
22,43
4,86
3,77
4,86
3,77
19
Văn hoá thể thao
47,78
25,77
15,72
2,40
15,72
2,40
20
Hoạt động công ích
51,68
29,47
14,23
8,00
14,23
8,00
21
Hoạt động đoàn thể,hội
47,41
34,49
22,95
0,87
22,95
0,87
22
Quản lí nhà nước
47,83

30,10

30,10

23
Ngân sách xã phường
28,28

10,58

17,71

    
Nguồn : TCTK