Thứ Hai, 19 tháng 5, 2014

Tranh luận phản biện: Cần thiết và mới mẻ hơn!




Lời giới thiệu
Thế giới xưa và nay là các cuộc thử nghiệm của loài người nhằm tiến bộ. Lịch sử nói nên rằng, không dễ gì có một lý thuyết mang giá trị phổ quát phủ lên chiều dài nhân loại. Loài người bế tắc, sai lầm lối tiếp xen kẽ những sáng tạo. Văn minh Đông -Tây tìm đến nhau nhưng không thay thế nhau, tiếp nhận nhau với tỷ lệ khác nhau. Trong thiên niên kỷ mới, các giá trị mới sinh ra và tái hiện những sai lầm của lịch sử (bóng ma luôn nhiều hơn bóng người hiện tại). Nhân loại dường như lười nhác ỷ thế vào văn minh khoa học, vào kinh nghiệm, và cả sự hiện hữu cho rằng luôn luôn đúng…. tàn phá thiên nhiên, ích kỷ, vô cảm, vô đạo không kém đã từng!
-Bài của TBT TCCS Vũ Văn Phúc không sai nhưng thiếu, dài nhưng không chặt chẽ. Ông liệt kê và nhận định kiểu mặc định. Đây cũng là một phương pháp khoa học cổ điển có vẻ như những thầy tu, linh mục của thời trung cổ bảo thủ chống lại Galile và Copecnic!
-Bài của tác giả 65 tuổi Đảng,Trung Hà thể hiện tinh thần phản biện, tuy nhiên ông hướng mạnh vào quan điểm, tư tưởng HCM, đúng, nhưng HCM không phải là toàn Đảng, toàn dân. Cách lập luận của ông liên tưởng đến phương pháp luận “sùng bái cá nhân” mà cá nhân không bao giờ làm nên lịch sử; nhân dân làm nên lịch sử nhưng lịch sử chẳng bao giờ tuân theo ý chí con người!
Sự hạn chế cách diễn đạt và tranh luận ngày hôm nay khá phổ biến. Tại sao chúng ta không dám xưng quan điểm riêng, mới của ĐCSVN mà không nhất thiết phải níu kéo quá khứ, dù quá khứ đó từng tích cực. Cần đổi mới lý luận hơn lúc nào hết.
-Đây là hai bài viết có giá trị học thuật hơn, là sự minh chứng cho mối quan tâm lớn về lý luận của ĐCSVN trong trăm năm tới; tiếc thay vẫn là cách nhìn phiến diện trong khuôn khổ bài viết, và tệ hơn là cách tầm chương trích cú khá “hủ học”. Chúng ta cần cách nhìn mới hơn bằng cảm thức hiện tại hướng tương lai!
Trân trọng cảm ơn  hai tác giả, xin được phép giới thiệu bạn đọc.


Phải chăng đây là sự hiểu biết “sâu sắc” về chủ nghĩa Mác – Lê-nin ?

Qua đọc bài viết của PGS, TS Vũ Văn Phúc với tựa đề : “Phải chăng chủ nghĩa Mác – Lê-nin là ngoại lai, bắt nguồn từ phương Tây nên không còn phù hợp với Việt Nam” đăng trên TCCS ngày 24/4/2014, tôi thấy cần góp ý vài điều như sau :
            1-Về chủ nghĩa cộng sản :
Phải chăng tác giả không biết hay đã cố tình bỏ qua những thay đổi trong quan điểm của Mác, Ăng-ghen về chủ nghĩa cộng sản. Thể hiện trong lời nói đầu của cuốn “Đấu tranh giai cấp ở Pháp”, xuất bản ngày 6/3/1895 Ăng-ghen đã viết : “Lịch sử chứng tỏ chúng ta đang mắc sai lầm. Quan điểm của chúng ta hồi đó chỉ là ảo tưởng. Lịch sử còn làm được nhiều hơn, không những đã xóa bỏ những mê muội của chúng ta hồi đó mà còn thay đổi điều kiện đấu tranh của giai cấp vô sản, phương pháp đấu tranh năm 1848 nay đã lỗi thời về mọi mặt…Chẳng có mục tiêu lớn “CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN” gì cả, đó chỉ là một mệnh đề được người khai sáng chủ nghĩa Mác đề xuất lúc trẻ nhưng đã vứt bỏ lúc cuối đời”. (Tạp chí Thông tin lý luận số 10/2007).
            2- Về sự khác nhau giữa Mác và Lê-nin
Không có lẽ tác giả không thấy được sự khác nhau giữa Mác và Lê-nin
Sau khi công bố “Tuyên ngôn của đảng cộng sản”, Mác, Ăng-ghen đã thành lập tổ chức Quốc tế cộng sản (Quốc tế I - 1864) để chỉ đạo thực hiện… Song thực tiễn cuộc sống diễn ra mấy thập kỷ sau đó đã khiến cho các ông nhận ra sai lầm và tự mình phủ định những quan điểm trước đó để đổi mới tư duy : tuyên bố giải tán Quốc tế cộng sản (1876), thay đổi mục tiêu và phương pháp đấu tranh theo hướng xã hội dân chủ…
Nhưng Lê-nin đã không hưởng ứng những sự thay đổi đó mà vẫn kiên trì bám theo những luận điểm ban đầu của Mác về bạo lực cách mạng và xây dựng xã hội cộng sản dựa trên nền tảng đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản…
Sau khi Mác và Ăng-ghen qua đời, Lê-nin đã kịch liệt phê phán những môn đệ trung thành với những ý tưởng đổi mới của Mác, Ăng-ghen như Béc-tanh, Cao-ski…coi đó là những kẻ “xét lại”, phản bội…qua tác phẩm : “Cách mạng vô sản và tên phản bội Cao-sky”. Thực chất là gián tiếp phê phán Mác, Ăng-ghen.
 Lê-nin còn đưa ra luận điểm các nước nông nghiệp lạc hậu có thể bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản – trái hẳn với luận điểm của Mác v.v...
    3- Về chủ nghĩa Mác – Lê-nin đối với cách mạng Việt Nam
 Tác giả đã cố tình gán ghép về nguyên nhân thắng lợi của cách mạng VN là sự vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin : “Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện, giáo dục, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng chính trị, kim chỉ nam cho hành động cách mạng, là minh chứng thuyết phục nhất chứng tỏ rằng, học thuyết Mác - Lê-nin đã thực sự đóng vai trò lý luận dẫn đường cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam.”Một sự ngộ nhận hết sức sai lầm.
Chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào Việt Nam thông qua Hồ Chí Minh như thông qua một bộ tinh lọc và có những bổ sung cực kỳ sáng tạo ngoài những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Chính vì vậy mới có được những thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam trong thế kỷ XX .
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh bao giờ cũng đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Lý luận Mác – Lê-nin nhấn mạnh đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản, nhưng Hồ Chí Minh lại cho rằng :
            “ Nghe  người  ta  nói giai cấp đấu tranh, mình cũng đề ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng” (HCM toàn tập, tập 5, tr 272).
“Trong lúc cần toàn dân đoàn kết mà chủ trương giai cấp đấu tranh là một điều ngu ngốc” (XYZ ,Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, Ban THTW, 1949).
            Về lực lượng cách mạng : Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết mọi lực lượng có thể đoàn kết được, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo...với khẩu hiệu : “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Kết quả là sự ra đời của Mặt trận Việt Minh (1941) đã quy tụ được sức mạnh của toàn dân tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.
Sau khi giành được chính quyền trong cách mạng Tháng 8/1945, Hồ Chí Minh không tuyên bố xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản mà chủ trương thiết lập chế độ dân chủ cộng hòa, (không dập khuôn theo mô hình cộng hòa xã hội chủ nghĩa của Liên Xô). Rồi sau đó thành lập chính phủ liên hiệp, gồm những người yêu nước và có năng lực không phân biệt thành phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo….
Như vậy, nguyên nhân căn bản của cuộc đấu tranh giành được độc lập và kháng chiến thành công là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ trương đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế...đã phát huy được truyền thống yêu nước, chống xâm lược của cả dân tộc và tranh thủ được ủng hộ của quốc tế...chứ không phải là đã thực hiện theo lý luận về đấu tranh giai cấp,  của chủ nghĩa Mác - Lê-nin (cả Mác và Lê-nin đều không có khái niệm đại đoàn kết). Nếu thực hiện đúng theo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê-nin thì không thể có thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng 8/1945 và thành công rực rỡ của hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ.
Từ những điều kể trên cho thấy những quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ bản là khác biệt so với các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Nếu như quy luật nhận thức của mỗi người đối với sự vật, hiện tượng khách quan là một quá trình... thì có thể thấy rõ nhận thức, quan điểm của Hồ Chí Minh đối với chủ nghĩa cộng sản cũng không ngoài quy luật đó.Với những quan sát và trải nghiệm trên khắp năm châu bốn biển trong suốt cả cuộc đời, quan tâm nghiên cứu đủ các loại học thuyết, các chủ nghĩa trên thế giới…Người cũng mong muốn có một xã hội cộng sản chủ nghĩa như ước mơ của Mác, nhưng đã sớm  nhận ra đó chỉ là ý tưởng cao đẹp, nhưng không có khả năng biến thành hiện thực. Tuy nhiên mục tiêu giành và giữ độc lập cho đất nước giữa thế kỷ 20 đòi hỏi phải tranh thủ sự giúp đỡ của phong trào cộng sản quốc tế, vì vậy đành phải chấp nhận thực hiện một số điều ngoài ý muốn...Cho đến những năm cuối đời (1965 – 1969) Hồ Chí Minh đã dành thời gian nghiền ngẫm, cẩn trọng biên soạn một bản Di chúc tâm huyết để lại cho toàn đảng, toàn dân, đề cập đến mọi vấn đề hệ trọng của đất nước, song trong đó không có lời  nào  căn  dặn phải đưa nước ta đi lên chủ nghĩa cộng sản mà chỉ nhấn mạnh rằng : “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là : Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam HÒA BÌNH, THỐNG NHẤT, ĐỘC LẬP, DÂN CHỦ VÀ GIẦU MẠNH, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế  giới”.
4- Ca ngợi một chiều thắng lợi, cố tình lẩn tránh, không đề cập đến những sai lầm, thất bại của đảng trong các thời kỳ chủ trương thực hiện theo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin :
         - Những năm 30 của thế kỷ XX, Trần Phú thực hiện theo chỉ đạo của Quốc tế cộng sản (Đệ tam) chủ trương đặt nhiệm vụ đấu tranh giai cấp lên hàng đầu, dẫn đến thất bại của cuộc khởi nghĩa Xô- viết Nghệ Tĩnh với khẩu hiệu : “Trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”.
            -Từ 1953 đến 1956 : Tiến hành cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức theo sự áp đặt của Liên xô, Trung Quốc ... phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc, gây nên một trong hậu quả nặng nề trong lịch sử của đất nước.
            -Từ 1976 đến 1985 : Thực hiện chuyên chính vô sản, triệt để cải tạo công thương nghiệp, xóa bỏ giai cấp tư sản, kinh tế tư nhân, đối xử tệ bạc và thành kiến nặng nề với những người đã làm việc trong bộ máy chính quyền cũ...Xây dựng nền kinh tế theo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin và mô hình cộng hòa XHCN xô viết của Liên xô...kết quả đưa đất nước vào một thời kỳ khủng hoảng trầm trọng.
            Thử đặt câu hỏi : nguyên nhân căn bản của những lần thất bại đó là gì ? Phải chăng cũng đều là do lãnh đạo đã đi chệch khỏi lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê-nin ? Câu trả lời là trái lại, vì đã làm đúng lý luận về đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản và xây dựng chế độ XHCN để tiến lên chủ  nghĩa cộng sản !
              5-Về nguyên nhân sụp đổ của LX và các nước XHCN Đông Âu
Tác giả cho rằng “ ...bắt đầu từ sai lầm trong xây dựng đường lối lãnh đạo của Đảng cầm quyền ở đó, do đi chệch khỏi chủ nghĩa Mác - Lê-nin chân chính, mà còn là sự xét lại và phản bội chủ nghĩa xã hội khoa học; đồng thời không thể không kể đến những âm mưu thâm độc trong chiến lược “diễn biến hòa bình” mà chính chủ nghĩa đế quốc quốc tế sử dụng...”
Về vấn đề này trong bài “Cận cảnh Liên xô và Đông Âu sụp đổ “ đăng trên báo Tuanvietnamnet – 7/11/2013, thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện chiến lược Bộ công an phân tích như sau :
Một là, Đảng cộng sản Liên Xô đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng. Đi liền với nó là các bệnh tật: độc đoán, chuyên quyền, không chấp nhận những ý kiến khác với mình; coi thường tập thể, coi thường cấp dưới, tự cho mọi ý kiến của mình là chân lý buộc mọi người phải tuân theo, coi những ai có ý kiến ngược lại là chống đối, thậm chí là thù địch, khi cần thiết bảo vệ "cái uy" của mình, họ sẵn sàng đối xử với đồng chí, đồng đội như đối với kẻ thù...
 Hai là, Bộ Chính trị, BCHTƯ Đảng cộng sản Liên Xô đã quan liêu xa rời thực tiễn, để mất quan hệ máu thịt giữa Đảng CSLX với nhân dân Liên Xô. Tệ quan liêu làm cho những người lãnh đạo các cấp của Đảng CSLX xa rời thực tế, không có hiểu biết đúng đắn hiện trạng xã hội mà mình đang lãnh đạo, quản lý. Họ thờ ơ trước những nguyện vọng chính đáng của quần chúng, thậm chí không có rung động, phản ứng trước những nỗi thống khổ, oan ức của một bộ phận quần chúng nhân dân, trong đó có cả một bộ phận đảng viên, cán bộ cấp dưới.
 Ba là, những suy thoái về đạo đức, lối sống của một số lãnh đạo cấp cao giữ vai trò chủ chốt với những biểu hiện nổi bật: Sống ích kỷ, đặt lợi ích của bản thân, gia đình và người thân lên trên lợi ích của đảng, của nhân dân; cục bộ địa phương, kéo bè kéo cánh đưa những người thân tín với mình, kể cả những người yếu về năng lực, kém về đạo đức, lối sống vào những vị trí lãnh đạo để làm vây cánh, che chắn bảo vệ mình; tham ô, sống xa hoa, nói một đằng làm một nẻo, cá biệt còn tha hoá, suy đồi về đạo đức, lối sống.
Trên đây là những biểu hiện nổi bật chủ yếu sự thoái hoá của một bộ phận cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Liên Xô, nhất là các cán bộ chủ chốt ở cấp cao.
Chỉ khi nào sự thoái hóa, biến chất diễn ra tại trung tâm quyền lực (chóp bu) của Đảng thì mới trở thành nguy cơ đối với Đảng, đó là đêm trước của sự tan rã, sụp đổ. Đảng cộng sản Liên Xô và các "phiên bản" Đông Âu của nó thuộc trường hợp này.”
Tham khảo thêm nhận xét TRUNG HÀ
Qua đọc bài viết của PGS, TS Vũ Văn Phúc với tựa đề : “Phải chăng chủ nghĩa Mác – Lê-nin là ngoại lai, bắt nguồn từ phương Tây nên không còn phù hợp với Việt Nam” đăng trên TCCS ngày 24/4/2014, tôi thấy cần góp ý vài điều như sau :
             1-Về chủ nghĩa cộng sản :
Phải chăng tác giả không biết hay đã cố tình bỏ qua những thay đổi trong quan điểm của Mác, Ăng-ghen về chủ nghĩa cộng sản. Thể hiện trong lời nói đầu của cuốn “Đấu tranh giai cấp ở Pháp”, xuất bản ngày 6/3/1895 Ăng-ghen đã viết : “Lịch sử chứng tỏ chúng ta đang mắc sai lầm. Quan điểm của chúng ta hồi đó chỉ là ảo tưởng. Lịch sử còn làm được nhiều hơn, không những đã xóa bỏ những mê muội của chúng ta hồi đó mà còn thay đổi điều kiện đấu tranh của giai cấp vô sản, phương pháp đấu tranh năm 1848 nay đã lỗi thời về mọi mặt…Chẳng có mục tiêu lớn “CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN” gì cả, đó chỉ là một mệnh đề được người khai sáng chủ nghĩa Mác đề xuất lúc trẻ nhưng đã vứt bỏ lúc cuối đời”. (Tạp chí Thông tin lý luận số 10/2007).
             2- Về sự khác nhau giữa Mác và Lê-nin
Không có lẽ tác giả không thấy được sự khác nhau giữa Mác và Lê-nin
Sau khi công bố “Tuyên ngôn của đảng cộng sản”, Mác, Ăng-ghen đã thành lập tổ chức Quốc tế cộng sản (Quốc tế I - 1864) để chỉ đạo thực hiện… Song thực tiễn cuộc sống diễn ra mấy thập kỷ sau đó đã khiến cho các ông nhận ra sai lầm và tự mình phủ định những quan điểm trước đó để đổi mới tư duy : tuyên bố giải tán Quốc tế cộng sản (1876), thay đổi mục tiêu và phương pháp đấu tranh theo hướng xã hội dân chủ…
Nhưng Lê-nin đã không hưởng ứng những sự thay đổi đó mà vẫn kiên trì bám theo những luận điểm ban đầu của Mác về bạo lực cách mạng và xây dựng xã hội cộng sản dựa trên nền tảng đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản…

Sau khi Mác và Ăng-ghen qua đời, Lê-nin đã kịch liệt phê phán những môn đệ trung thành với những ý tưởng đổi mới của Mác, Ăng-ghen như Béc-tanh, Cao-ski…coi đó là những kẻ “xét lại”, phản bội…qua tác phẩm : “Cách mạng vô sản và tên phản bội Cao-sky”. Thực chất là gián tiếp phê phán Mác, Ăng-ghen.
 Lê-nin còn đưa ra luận điểm các nước nông nghiệp lạc hậu có thể bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản – trái hẳn với luận điểm của Mác v.v...
    3- Về chủ nghĩa Mác – Lê-nin đối với cách mạng Việt Nam
 Tác giả đã cố tình gán ghép về nguyên nhân thắng lợi của cách mạng VN là sự vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin : “Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện, giáo dục, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng chính trị, kim chỉ nam cho hành động cách mạng, là minh chứng thuyết phục nhất chứng tỏ rằng, học thuyết Mác - Lê-nin đã thực sự đóng vai trò lý luận dẫn đường cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam.”Một sự ngộ nhận hết sức sai lầm.
Chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào Việt Nam thông qua Hồ Chí Minh như thông qua một bộ tinh lọc và có những bổ sung cực kỳ sáng tạo ngoài những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Chính vì vậy mới có được những thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam trong thế kỷ XX .
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh bao giờ cũng đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Lý luận Mác – Lê-nin nhấn mạnh đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản, nhưng Hồ Chí Minh lại cho rằng :
            “ Nghe  người  ta  nói giai cấp đấu tranh, mình cũng đề ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng” (HCM toàn tập, tập 5, tr 272).
“Trong lúc cần toàn dân đoàn kết mà chủ trương giai cấp đấu tranh là một điều ngu ngốc” (XYZ ,Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, Ban THTW, 1949).
            Về lực lượng cách mạng : Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết mọi lực lượng có thể đoàn kết được, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo...với khẩu hiệu : “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Kết quả là sự ra đời của Mặt trận Việt Minh (1941) đã quy tụ được sức mạnh của toàn dân tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.
Sau khi giành được chính quyền trong cách mạng Tháng 8/1945, Hồ Chí Minh không tuyên bố xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản mà chủ trương thiết lập chế độ dân chủ cộng hòa, (không dập khuôn theo mô hình cộng hòa xã hội chủ nghĩa của Liên Xô). Rồi sau đó thành lập chính phủ liên hiệp, gồm những người yêu nước và có năng lực không phân biệt thành phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo….
Như vậy, nguyên nhân căn bản của cuộc đấu tranh giành được độc lập và kháng chiến thành công là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ trương đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế...đã phát huy được truyền thống yêu nước, chống xâm lược của cả dân tộc và tranh thủ được ủng hộ của quốc tế...chứ không phải là đã thực hiện theo lý luận về đấu tranh giai cấp,  của chủ nghĩa Mác - Lê-nin (cả Mác và Lê-nin đều không có khái niệm đại đoàn kết). Nếu thực hiện đúng theo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê-nin thì không thể có thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng 8/1945 và thành công rực rỡ của hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ.
Từ những điều kể trên cho thấy những quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ bản là khác biệt so với các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Nếu như quy luật nhận thức của mỗi người đối với sự vật, hiện tượng khách quan là một quá trình... thì có thể thấy rõ nhận thức, quan điểm của Hồ Chí Minh đối với chủ nghĩa cộng sản cũng không ngoài quy luật đó.Với những quan sát và trải nghiệm trên khắp năm châu bốn biển trong suốt cả cuộc đời, quan tâm nghiên cứu đủ các loại học thuyết, các chủ nghĩa trên thế giới…Người cũng mong muốn có một xã hội cộng sản chủ nghĩa như ước mơ của Mác, nhưng đã sớm  nhận ra đó chỉ là ý tưởng cao đẹp, nhưng không có khả năng biến thành hiện thực. Tuy nhiên mục tiêu giành và giữ độc lập cho đất nước giữa thế kỷ 20 đòi hỏi phải tranh thủ sự giúp đỡ của phong trào cộng sản quốc tế, vì vậy đành phải chấp nhận thực hiện một số điều ngoài ý muốn...Cho đến những năm cuối đời (1965 – 1969) Hồ Chí Minh đã dành thời gian nghiền ngẫm, cẩn trọng biên soạn một bản Di chúc tâm huyết để lại cho toàn đảng, toàn dân, đề cập đến mọi vấn đề hệ trọng của đất nước, song trong đó không có lời  nào  căn  dặn phải đưa nước ta đi lên chủ nghĩa cộng sản mà chỉ nhấn mạnh rằng : “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là : Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam HÒA BÌNH, THỐNG NHẤT, ĐỘC LẬP, DÂN CHỦ VÀ GIẦU MẠNH, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế  giới”.
4- Ca ngợi một chiều thắng lợi, cố tình lẩn tránh, không đề cập đến những sai lầm, thất bại của đảng trong các thời kỳ chủ trương thực hiện theo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin :
- Những năm 30 của thế kỷ XX, Trần Phú thực hiện theo chỉ đạo của Quốc tế cộng sản (Đệ tam) chủ trương đặt nhiệm vụ đấu tranh giai cấp lên hàng đầu, dẫn đến thất bại của cuộc khởi nghĩa Xô- viết Nghệ Tĩnh với khẩu hiệu : “Trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”.
-Từ 1953 đến 1956 : Tiến hành cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức theo sự áp đặt của Liên xô, Trung Quốc ... phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc, gây nên một trong hậu quả nặng nề trong lịch sử của đất nước.
            -Từ 1976 đến 1985 : Thực hiện chuyên chính vô sản, triệt để cải tạo công thương nghiệp, xóa bỏ giai cấp tư sản, kinh tế tư nhân, đối xử tệ bạc và thành kiến nặng nề với những người đã làm việc trong bộ máy chính quyền cũ...Xây dựng nền kinh tế theo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin và mô hình cộng hòa XHCN xô viết của Liên xô...kết quả đưa đất nước vào một thời kỳ khủng hoảng trầm trọng.
            Thử đặt câu hỏi : nguyên nhân căn bản của những lần thất bại đó là gì ? Phải chăng cũng đều là do lãnh đạo đã đi chệch khỏi lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê-nin ? Câu trả lời là trái lại, vì đã làm đúng lý luận về đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản và xây dựng chế độ XHCN để tiến lên chủ  nghĩa cộng sản !
              5-Về nguyên nhân sụp đổ của LX và các nước XHCN Đông Âu
Tác giả cho rằng “ ...bắt đầu từ sai lầm trong xây dựng đường lối lãnh đạo của Đảng cầm quyền ở đó, do đi chệch khỏi chủ nghĩa Mác - Lê-nin chân chính, mà còn là sự xét lại và phản bội chủ nghĩa xã hội khoa học; đồng thời không thể không kể đến những âm mưu thâm độc trong chiến lược “diễn biến hòa bình” mà chính chủ nghĩa đế quốc quốc tế sử dụng...”

Về vấn đề này trong bài “Cận cảnh Liên xô và Đông Âu sụp đổ “ đăng trên báo Tuanvietnamnet – 7/11/2013, thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện chiến lược Bộ công an phân tích như sau :
Một là, Đảng cộng sản Liên Xô đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng. Đi liền với nó là các bệnh tật: độc đoán, chuyên quyền, không chấp nhận những ý kiến khác với mình; coi thường tập thể, coi thường cấp dưới, tự cho mọi ý kiến của mình là chân lý buộc mọi người phải tuân theo, coi những ai có ý kiến ngược lại là chống đối, thậm chí là thù địch, khi cần thiết bảo vệ "cái uy" của mình, họ sẵn sàng đối xử với đồng chí, đồng đội như đối với kẻ thù...
 Hai là, Bộ Chính trị, BCHTƯ Đảng cộng sản Liên Xô đã quan liêu xa rời thực tiễn, để mất quan hệ máu thịt giữa Đảng CSLX với nhân dân Liên Xô. Tệ quan liêu làm cho những người lãnh đạo các cấp của Đảng CSLX xa rời thực tế, không có hiểu biết đúng đắn hiện trạng xã hội mà mình đang lãnh đạo, quản lý. Họ thờ ơ trước những nguyện vọng chính đáng của quần chúng, thậm chí không có rung động, phản ứng trước những nỗi thống khổ, oan ức của một bộ phận quần chúng nhân dân, trong đó có cả một bộ phận đảng viên, cán bộ cấp dưới.
 Ba là, những suy thoái về đạo đức, lối sống của một số lãnh đạo cấp cao giữ vai trò chủ chốt với những biểu hiện nổi bật: Sống ích kỷ, đặt lợi ích của bản thân, gia đình và người thân lên trên lợi ích của đảng, của nhân dân; cục bộ địa phương, kéo bè kéo cánh đưa những người thân tín với mình, kể cả những người yếu về năng lực, kém về đạo đức, lối sống vào những vị trí lãnh đạo để làm vây cánh, che chắn bảo vệ mình; tham ô, sống xa hoa, nói một đằng làm một nẻo, cá biệt còn tha hoá, suy đồi về đạo đức, lối sống.
Trên đây là những biểu hiện nổi bật chủ yếu sự thoái hoá của một bộ phận cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Liên Xô, nhất là các cán bộ chủ chốt ở cấp cao.
Chỉ khi nào sự thoái hóa, biến chất diễn ra tại trung tâm quyền lực (chóp bu) của Đảng thì mới trở thành nguy cơ đối với Đảng, đó là đêm trước của sự tan rã, sụp đổ. Đảng cộng sản Liên Xô và các "phiên bản" Đông Âu của nó thuộc trường hợp này.”
Tham khảo thêm nhận xét của các nhà nghiên cứu trên thế giớicho thấy: ô...nguyên nhân quan trọng về sự sụp đổ của ĐCSLX sau 74 năm cầm quyền là nạn tham nhũng trong bộ máy lãnh đạo : “sự đồi bại, trụy lạc trở nên phổ biến, nạn tham ô, hối lộ chính là đặc điểm của thời kỳ Brêgiơnép”, mà điển hình là Tổng bí thư ! “Brêgiơnép thích câu cá và săn bắn. Việc đi săn và câu cá của Brêgiơnép cũng gièng như nhà vua đi tuần thú vậy, tiền hô hậu ủng, kéo theo đó là những buổi yến tiệc linh đình. Lúc này, trong quan chức của Liên Xô thịnh hành phong cách “tiệc tùng” và “quà biếu”. Mọi người đều coi quà biếu kiểu này như một “nghi thức giao tiếp bình thường” một người có thể tiếp nhận quà biếu nhiều nhất không ai khác chính là Tổng bí thư Brêgiơnép...những chiếc xe hơi được biếu tặng của Brêgiơnép đã chất đầy mấy gara ôtô, súng săn thì chất đầy một căn phòng lớn ! v.v...” [*] Từ đó mà hình thành cả một mạng lưới đặc quyền đặc lợi, tham nhũng phổ biến từ trên xuống dưới. (xem : “Bàn về công tác xây dựng năng lực cầm quyền của đảng” - trang 38, 39 - NXB Chính trị quốc gia - Hà Nội - 2010).
Mầm mống của sự tan rã và mất chính quyền của Đảng cộng sản Liên Xô vào năm 1991 chính là ở chỗ đó chứ đâu phải chỉ vì những sai lầm của Gooc – ba - chôp và sự phá hoại của các thế lực thù địch bên ngoài. Mặc dù với hơn 20 triệu đảng viên cộng sản cùng vài chục triệu đoàn viên thanh niên công-xô-môn với lực lượng quân đội và cảnh sát, an ninh hùng hậu...nhưng khi mà đại đa số nhân dân đã mất hết lòng tin, đã bất bình và quay lưng lại với đảng cầm quyền thì không có cách gì có thể cứu vãn được nữa !
Ngoài ra cũng cần phân tích thêm về bức tường Béc-lanh nổi tiếng ngăn cách 2 miền nước Đức, cũng là để ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa tư bản thâm nhập vào các nước XHCN từ phía tây, do nước Cộng hòa dân chủ Đức (Đông Đức), một nước giầu nhất trong phe XHCN làm tiền đồn. Thế mà tự dưng năm 1989 bức tường đó lại bị đổ ! Phải chăng là do các thế lực thù địch quốc tế và nhà cầm quyền Tây Đức phá để thôn tính Đông Đức ? Sự thực hoàn toàn ngược lại, chính là do nhân dân Đông Đức ngày càng bất mãn với chế độ vô sản chuyên chính mất dân chủ, đời sống ngày tụt hậu, thu nhập bình quân chỉ bằng ¼ so với Tây Đức...nên số người trốn chạy sang Tây Đức (bằng các ngả đường vòng qua các nước khác) ngày càng nhiều, số còn lại gây áp lực lớn với chính quyền đòi được tự do đi lại...buộc lãnh đạo phải nhượng bộ...thế là bức tường Béc-lanh kiên cố bị vô hiệu hóa ! nói một cách khác là từ trong nhân dân Đông Đức phá ra chứ không phải từ các thế lực thù địch bên ngoài phá vào. Đó là hệ quả tất yếu của đường lối lãnh đạo sai lầm theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin v.v...
Mặc dù với hơn 20 triệu đảng viên cộng sản cùng vài chục triệu đoàn viên thanh niên công-xô-môn với lực lượng quân đội và cảnh sát, an ninh hùng hậu...nhưng khi mà đại đa số nhân dân đã mất hết lòng tin, đã bất bình và quay lưng lại với đảng cầm quyền thì không có cách gì có thể cứu vãn được nữa !
Ngoài ra cũng cần phân tích thêm về bức tường Béc-lanh nổi tiếng ngăn cách 2 miền nước Đức, cũng là để ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa tư bản thâm nhập vào các nước XHCN từ phía tây, do nước Cộng hòa dân chủ Đức (Đông Đức), một nước giầu nhất trong phe XHCN làm tiền đồn. Thế mà tự dưng năm 1989 bức tường đó lại bị đổ ! Phải chăng là do các thế lực thù địch quốc tế và nhà cầm quyền Tây Đức phá để thôn tính Đông Đức ? Sự thực hoàn toàn ngược lại, chính là do nhân dân Đông Đức ngày càng bất mãn với chế độ vô sản chuyên chính mất dân chủ, đời sống ngày tụt hậu, thu nhập bình quân chỉ bằng ¼ so với Tây Đức...nên số người trốn chạy sang Tây Đức (bằng các ngả đường vòng qua các nước khác) ngày càng nhiều, số còn lại gây áp lực lớn với chính quyền đòi được tự do đi lại...buộc lãnh đạo phải nhượng bộ...thế là bức tường Béc-lanh kiên cố bị vô hiệu hóa ! nói một cách khác là từ trong nhân dân Đông Đức phá ra chứ không phải từ các thế lực thù địch bên ngoài phá vào. Đó là hệ quả tất yếu của đường lối lãnh đạo sai lầm theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin v.v...
T.H

 [*] Theo TS Lê Đăng Doanh Viện trưởng CIEM năm 1990: Tổng Bí thư Hô Nếch Cơ (CHDC Đức) và bạn một UVBCT có thú vui đi săn tì súng lên vai cận vệ, đến mức cận vệ đó bị điếc. Một thú vui vua chúa tái hiện vào những người lãnh đạo nhà nước XHCN.
Theo Tin tức TTXVN năm 1990, thì ông Xê au xét cu TBT ĐCS Ru Ma ni có con trai là bí thư tỉnh, cậu này có thú vui đái vào chậu ốc sên, sau đó bắt người khác luộc ăn…Đó là bệnh hoạn và tội ác của cường hào ác bá xa xưa?

Ở Việt Nam, thời trước 1989, cửa hàng Tôn Đản và Hữu Nghị (Hà Nội) bán nhu yếu phẩm cho bìa B,A, Đặng Dung bìa C,… cũng là một đặc quyền, dẫu không có gì giá trị lớn, và quá hiếm, nhưng nó đã thể hiện mầm họa của xã hội, và di chứng dịch chuyển vào lối sống hôm nay, quan chức nhà nước cố phải “đẳng cấp”, không chịu thua kém khu vực tư nhân!

Nếp sống đó thể hiện trình độ rất thấp.


([*] ngoài bài viết trên).



Phải chăng chủ nghĩa Mác - Lê-nin là “ngoại lai, bắt nguồn từ phương Tây nên không còn phù hợp với Việt Nam”
Vũ Văn Phúc - PGS. TS, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản
Thực tế lịch sử cho thấy, từ khi hình thành, phát triển và được xác lập vào cuối thế kỷ XIX, Học thuyết Mác - Lê-nin và những nguyên lý, quy luật kinh tế - xã hội mà Học thuyết đó phát hiện ra, ngày càng được chứng minh bằng thực tiễn cuộc sống, được thừa nhận rộng rãi và trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của giai cấp công nhân, là vũ khí lý luận sắc bén của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của các đảng tiên phong, chân chính của giai cấp đó ở trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam chúng ta.
Suốt hàng thế kỷ qua, nhất là mấy thập niên cuối thế kỷ XX, đặc biệt sau khi chủ nghĩa xã hội (CNXH) hiện thực ở Liên Xô và các quốc gia Đông Âu bị sụp đổ, chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã bị xuyên tạc, bóp méo một cách giáo điều hay cơ hội đủ loại. Từ đầu thế kỷ XXI đến nay, các thủ đoạn xuyên tạc, bóp méo chủ nghĩa Mác - Lê-nin lại gia tăng về quy mô, đa dạng về hình thức, nguy hiểm về tính chất và càng thâm độc về mức độ. Các thế lực thù địch âm mưu tấn công thẳng vào học thuyết khoa học và cách mạng đó nhằm hạ thấp uy tín, kể cả bôi nhọ cuộc đời riêng tư và sự nghiệp cách mạng của C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V.I. Lê-nin, thực hiện dã tâm phủ nhận, xóa bỏ toàn bộ chủ nghĩa Mác - Lê-nin trên toàn thế giới, mưu toan phá vỡ và lật đổ nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng ta. Có thể dễ dàng thấy họ đang điên cuồng bài bác, trương lên và tung hê các luận điệu rằng: “Học thuyết Mác là sản phẩm của giữa thế kỷ XIX, do vậy đem đặt nó trong bối cảnh thế kỷ XXI nếu không lạc hậu, thì cũng chẳng thể là khoa học”(!); “Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là ngoại lai, bắt nguồn từ phương Tây nên không còn phù hợp với Việt Nam”, v.v.. (!).
Nhưng, sự thật có phải như các thế lực thù địch của chủ nghĩa Mác - Lê-nin rêu rao như vậy không?
C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin là những nhà khoa học - những nhà cách mạng. Lý tưởng mà các Ông theo đuổi là khát vọng của nhân loại tiến bộ - con người được giải phóng hoàn toàn khỏi mọi ách áp bức bóc lột, được ấm no, tự do, hạnh phúc. Thử hỏi rằng, phải chăng điều thiêng liêng như vậy chỉ có phương Tây cần và lý tưởng của các Ông chỉ phù hợp với phương Tây - nơi mà chủ nghĩa tư bản đang chà đạp tinh vi, thâm độc lên số phận mỗi con người, các dân tộc? Chủ nghĩa do các Ông sáng lập và đấu tranh bảo vệ không mệt mỏi, là nhằm hiện thực hóa lý tưởng đó, trên cơ sở lịch sử cụ thể, một cách khách quan theo cái lô-gic phát triển tất yếu của nhân loại, bằng cách “giải phẫu” và biến đổi cách mạng đối với xã hội đương thời. Nói cách khác, lý luận của các Ông chỉ giúp loài người lựa chọn điều cần và phải đi con đường dẫn tới xã hội không còn người bóc lột người, với những lực lượng tiên quyết, những điều kiện có tính chất cần và đủ, khi đứng ở ngã ba lịch sử của sự lựa chọn và phải quyết định. Thử hỏi điều đó, phương Đông, nơi khi mà chủ nghĩa thực dân đang còn giày xéo lên tất cả các dân tộc, dưới gót sắt nô dịch của chúng, có cần không? hay chỉ phương Tây, nơi chính nhân dân lao động các nước tư bản chủ nghĩa (TBCN) đang bị giai cấp tư sản cầm tù, mới cần đến? 
Sự cần thiết, sự phù hợp, vai trò cơ sở, nền tảng tư tưởng lý luận, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đối với lịch sử phát triển của cách mạng thế giới và Việt Nam, có thể khái quát ở những điểm chủ yếu dưới đây:
1- Sự vận động, phát triển từ thời cổ đại đến nay của nhân loại và của lịch sử dân tộc Việt Nam là bằng chứng rõ ràng chứng tỏ rằng, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội (HTKTXH) của chủ nghĩa Mác - Lê-nin là khoa học, đúng đắn và phản ánh chính xác lịch sử vận động, phát triển tiến bộ của toàn thể nhân loại, trong đó có dân tộc Việt Nam.
Mọi người đều biết, học thuyết HTKTXH là cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin để tiếp cận nghiên cứu, giải thích, dự báo sự phát triển mang tính lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người nói chung, mỗi dân tộc nói riêng, trong đó có sự phát triển của lịch sử Việt Nam chúng ta. Học thuyết đó đã chỉ rõ: 
- Lịch sử phát triển của loài người là lịch sử phát triển và thay thế nhau của các HTKTXH, trong đó sự phát triển của các quan hệ sản xuất theo hướng tiến bộ là cơ sở hạ tầng, trên đó xây dựng nên kiến trúc thượng tầng thích hợp. 
- Lịch sử loài người đã và đang trải qua 5 HTKTXH. Đó là quy luật chung của sự phát triển của xã hội loài người; còn mỗi quốc gia dân tộc có thể bỏ qua một hình thái nào đó trong điều kiện lịch sử của thời đại và dân tộc. Việt Nam bỏ qua sự phát triển HTKTXH chiếm hữu nô lệ và HTKTXH TBCN là một thực tế lịch sử khách quan không thể phủ nhận.
Như vậy, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin không chỉ đơn thuần “giải phẫu” các HTKTXH, mà còn phân tích làm nổi bật lên bản chất và những mâu thuẫn cơ bản trong mỗi HTKTXH và cuối cùng, dự báo sự thay thế giữa các HTKTXH từ thấp lên cao hoặc tuần tự hoặc nhảy vọt một cách biện chứng, theo quy luật. Một cách lịch sử - tự nhiên, cũng như từ chế độ cộng sản nguyên thủy nhân loại bước lên chế độ chiếm hữu nô lệ rồi chế độ phong kiến tới CNTB, thì sau HTKTXH TBCN ấy phải là một HTKTXH tiến bộ hơn, đó chính là chủ nghĩa cộng sản (CNCS). Đó là cái tất yếu lịch sử hợp quy luật mà khoa học mác-xít đã chỉ ra. 
Học thuyết Mác - Lê-nin vì là khoa học và cách mạng triệt để nên nó giải quyết tất cả sự trăn trở, những yêu cầu tiến bộ của nhân loại cần lao, dù ở phương Đông hay phương Tây, như chính bản thân nó tỏa sáng. Thực tế lịch sử cho thấy, từ khi chủ nghĩa Mác hình thành, phát triển vào giữa thế kỷ XIX, hệ thống các tư tưởng, quan điểm và những nguyên lý, quy luật kinh tế - xã hội mà hệ thống khoa học đó phát hiện ngày càng được chứng minh bằng thực tiễn cuộc sống, được thừa nhận rộng rãi và trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của giai cấp công nhân toàn thế giới, là vũ khí lý luận sắc bén của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên các châu lục và của các đảng tiên phong, chân chính của giai cấp đó, không kể ở Việt Nam hay bất cứ quốc gia, dân tộc nào hay ở châu lục nào.
Ai cũng có thể thấy, ngay từ khi mới chỉ là một “bóng ma” ở châu Âu CNCS khoa học đã được thực nghiệm bằng những cuộc cách mạng vô sản, nổ ra và thành công, chính quyền công nông được xác lập trong thực tiễn, CNXH hiện thực đã tồn tại với tư cách là một hệ thống cùng tất cả tính ưu việt và sức sống mãnh liệt của nó trên thế giới. Nó là linh hồn của các phong trào tiến bộ, giúp các dân tộc đập tan chủ nghĩa phát-xít, giải phóng khỏi chủ nghĩa thực dân cũ và mới, giành độc lập dân tộc, dân quyền và tự do cho toàn thể nhân loại cần lao, chứ đâu của riêng phương trời nào. 
C. Mác là nhà khoa học thiên tài và cách mạng triệt để nhất đã vạch trần một cách chính xác bản chất bóc lột của chế độ tư bản là bóc lột giá trị thặng dư - thủ phạm cầm tù nhân dân lao động dù ở chính quốc hay thuộc địa của giai cấp tư sản, kẻ chà đạp lên độc lập tự do của các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Bản chất bóc lột của CNTB vẫn không thay đổi, bản chất phản động toàn diện của nền chính trị tư sản hiện đại vẫn tồn tại, bản chất mâu thuẫn, khủng hoảng và xu hướng diệt vong tất yếu của CNTB vẫn là vấn đề thời sự của không chỉ thời C. Mác sống và ngay cả tới tận ngày nay. V.I. Lê-nin chỉ rõ: “Học thuyết của Mác là học thuyết vạn năng vì nó là một học thuyết chính xác(1). Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chủ nghĩa Lê-nin... không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”(2). 
Thế nhưng, các quan điểm sai trái và phản động lại vin vào việc mô hình CNXH ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ để hô hoán lên rằng, “chủ nghĩa Mác đã thất bại”(!). Và, hôm nay, lại chính họ đã tự phơi bày một lối hiểu “trích cú”, “tầm chương”, phiến diện và phản khoa học về chủ nghĩa Mác, khi CNTB đang vùng vẫy trong vũng lầy khủng hoảng, như theo dự báo của C. Mác và khỏa lấp sự tráo trở đó nhân sự thăng trầm của CNXH. Những “lý sự” của họ không thể đánh lừa được ai. Lương tri của nhân loại vẫn rất tỉnh táo và sáng suốt khi đánh giá rằng “chủ nghĩa Mác vẫn giữ nguyên ý nghĩa và tầm quan trọng của nó trong thế giới hiện đại...”(3), “vẫn luôn luôn là một căn cứ quyết định cho các tổ chức cách mạng của giai cấp công nhân quốc tế, cho các đảng cộng sản chân chính đề ra đường lối chiến lược, sách lược cách mạng của mình”(4). Nó đánh dấu sự phát triển trí tuệ của nhân loại trong thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH. Hơn nữa, chính những người thóa mạ và bôi nhọ C. Mác, cố tình không hiểu rằng, CNXH ở Liên Xô và Đông Âu (trước đây) sụp đổ không phải vì tư tưởng khoa học của học thuyết Mác - Lê-nin không còn tính thời đại, mà là sự phá sản của một đường lối sai lầm, chẳng những sa vào quan liêu hóa, giáo điều, chủ quan, duy ý chí bắt đầu từ sai lầm trong xây dựng đường lối lãnh đạo của Đảng cầm quyền ở đó, do đi chệch khỏi chủ nghĩa Mác - Lê-nin chân chính, mà còn là sự xét lại và phản bội chủ nghĩa xã hội khoa học; đồng thời không thể không kể đến những âm mưu thâm độc trong chiến lược “diễn biến hòa bình” mà chính chủ nghĩa đế quốc quốc tế sử dụng. Kẻ thù của các đảng cộng sản đã lợi dụng triệt để những sai lầm trong đường lối, những khiếm khuyết không được khắc phục kịp thời trong lãnh đạo và điều hành đất nước của các đảng ở các nước đó... để mua chuộc, kích động và cổ vũ những phần tử cơ hội bên trong, khuyến khích những hành động phản cách mạng bên ngoài. Kẻ thù của C. Mác đổ tội tất cả điều đó cho C. Mác, cho chủ nghĩa Mác - Lê-nin (!). 
Nếu ai còn hồ nghi về điều đó, xin hãy đọc thêm trang htpp://vi.Wikipedia.org/wiki/KarlMacx: Năm 1999, Trường Đại học Cam-brit (Anh) công bố bình chọn nhà tư tưởng số một thiên niên kỷ thứ 2, kết quả là C. Mác đứng đầu, A. Anh-xtanh - nhà khoa học lớn, đứng thứ 2. Và mới đây, theo thăm dò của tờ Tạp chí Spiegel (Đức), C. Mác được ưa chuộng một cách ngạc nhiên - hơn 50% số người dân Đức nói rằng, “sự phê phán của C. Mác đối với chủ nghĩa tư bản ngày nay vẫn giữ nguyên giá trị”, và thậm chí hơn 56% cho rằng, “chủ nghĩa xã hội là một tư tưởng hay nhưng thực hành tồi”; và C. Mác trong giới trẻ còn nhận được sự đồng tình cao hơn nữa. Và, theohttp://ww.guardian.co.uk/politics/jul/17/comment.theo bserverl, nhà tỷ phú đầu cơ chứng khoán G. Sô-rốt viết: “C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã cho một phân tích rất tốt về hệ thống tư bản từ cách đây 150 năm”. Rồi, ngay tờ The New Yorker (Mỹ) cũng cho rằng, các nhà kinh tế học hiện đại đang “bước theo dấu chân của C. Mác mà họ không biết”, trong quá trình giải quyết các vấn đề mà họ phải đối mặt, bởi chưng lại theo tờ Tạp chí Newsweek (Mỹ), C. Mác “đã mổ xẻ cái hệ thống trục lợi này tốt hơn ai hết... Như thể C. Mác đã đội mồ đứng dậy!”. Và thực tế đang chứng minh rằng, chính bản thân CNTB dù ở phương Đông hay phương Tây (từ Nhật Bản tới Tây Âu rồi Mỹ...) cũng đã và đang vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin nhằm điều chỉnh, thích nghi để tồn tại đó thôi.
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã, đang và mãi mãi dẫn dắt cách mạng Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam, vì chủ nghĩa xã hội, vì lý tưởng góp phần giải phóng toàn thể nhân loại cần lao, như bất cứ ai không thể không thấy!
2- Chủ nghĩa Mác - Lê-nin chỉ ra quy luật khách quan của quá trình ra đời, phát triển của CNXH, CNCS; đồng thời cũng chỉ ra điều kiện chủ quan quyết định của quá trình đó là: lý luận tiên phong và đảng tiên phong của giai cấp công nhân. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C. Mác - Ph. Ăng-ghen đã nêu rõ tư tưởng về điều kiện để giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động là phải có “đội tiên phong với lý luận tiên phong và hành động tiên phong”. C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã ghi rõ rằng, những người cộng sản tuyệt nhiên không có lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản. Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất..., là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên; về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là, họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản. 
Trong tác phẩm “Làm gì?”, V.I. Lê-nin đã khẳng định: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”(5); “chỉ đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong”(6).
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện, giáo dục, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng chính trị, kim chỉ nam cho hành động cách mạng, là minh chứng thuyết phục nhất chứng tỏ rằng, học thuyết Mác - Lê-nin đã thực sự đóng vai trò lý luận dẫn đường cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Phát huy truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, các tầng lớp nhân dân Việt Nam đã đứng lên chống quân xâm lược hơn nửa thế kỷ, nhưng đã không thành công. Đầu thế kỷ XX phong trào yêu nước theo khuynh hướng tư sản cũng lần lượt thất bại. Đất nước như không có đường ra. 
Năm 1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành, với tên anh Ba ra đi tìm đường cứu nước. Sau 10 năm (1911 - 1920) bôn ba khắp các châu lục vừa nghiên cứu lý luận, vừa nghiên cứu thực tiễn cách mạng trên thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã đi đến kết luận: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức”. Tiếp đến Người phải qua 10 năm chuẩn bị trên cả ba phương diện: tư tưởng lý luận, đường lối chính trị, tổ chức cán bộ để đưa tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày 3-2-1930). Nói về vai trò của Đảng Cộng sản và lý luận, trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” xuất bản năm 1927, Nguyễn Ái Quốc trích câu nói nổi tiếng của V.I. Lê-nin trong tác phẩm “Làm gì?” và Người đặt câu hỏi: “Cách mệnh, trước hết phải có cái gì?”. Và Người trả lời rõ rằng: “Trước hết phải có Đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành công... Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm nòng cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. 
Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin”(7). 
Trong bài nói chuyện với lớp bồi dưỡng đảng viên mới do Thành ủy Hà Nội tổ chức năm 1966 Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định: “Không có lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học thì không thể có lập trường giai cấp vững vàng. Vì vậy, các cô, các chú phải chịu khó học tập lý luận Mác - Lê-nin, học tập đường lối, chính sách của Đảng; đồng thời phải học tập văn hóa, kỹ thuật và nghiệp vụ”(8).
Trong những năm cuối đời, khi viết Di chúc, Bác Hồ tiếp tục khẳng định rõ tư tưởng về vai trò của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và của Đảng Cộng sản.
3- V.I. Lê-nin kế thừa, phát triển và vận dụng sáng tạo học thuyết của C. Mác vào thực tiễn cách mạng ở Nga và thế giới, trên cơ sở đó đề ra học thuyết về cách mạng XHCN trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa. 
Trên cơ sở những nghiên cứu, phân tích về chủ nghĩa đế quốc (CNĐQ), V.I. Lê-nin phát hiện ra quy luật phát triển không đều về kinh tế và chính trị của CNTB trong thời kỳ CNĐQ và đi đến kết luận: cách mạng vô sản có thể thắng lợi ở một số nước hay thậm chí ở một nước riêng lẻ, nơi CNTB chưa phải là phát triển nhất, nhưng là khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền TBCN. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã chứng minh cho điều đó. Đồng thời, V.I. Lê-nin đã đưa ra luận thuyết khoa học và cách mạng về sự quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. 
Hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, Việt Nam chuyển lên tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc (từ năm 1954) và trên quy mô cả nước (từ năm 1975). Thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất Tổ quốc, cả nước cùng quá độ lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua giai đoạn phát triển CNTB, là bằng chứng thực tế đầy thuyết phục chứng tỏ rằng, học thuyết của V.I. Lê-nin về cách mạng XHCN trong thời đại đế quốc chủ nghĩa là hoàn toàn đúng đắn, có cơ sở lý luận khoa học, cơ sở thực tiễn, phản ánh chính xác những nét lớn, cơ bản của thực tiễn lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XX và cả hiện nay.
4- Những thành tựu có ý nghĩa lịch sử, mang tính bước ngoặt, đặc biệt là những thành tựu của gần 30 năm đổi mới mà Việt Nam đã đạt được, một phần rất quan trọng là do Đảng, Nhà nước ta đã vận dụng sáng tạo những tư tưởng, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trong đó có Chính sách kinh tế mới (NEP) của V.I. Lê-nin trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Như vậy, với NEP, V.I. Lê-nin đã khẳng định rằng, đi lên CNXH không phải là xóa bỏ kinh tế thị trường, mà phải sử dụng kinh tế thị trường; nhưng không phải là thị trường tự do cạnh tranh TBCN, mà có sự điều tiết của nhà nước; không phải là nền kinh tế của một thành phần kinh tế độc tôn, mà là nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu,...
Sự vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lê-nin, cụ thể là NEP của V.I. Lê-nin vào hoàn cảnh, điều kiện Việt Nam được thể hiện đặc biệt rõ nét trong quan điểm, chủ trương của Đảng ta về phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
5- Những thành tựu mà Việt Nam đạt được trên mặt trận đối ngoại, một phần rất quan trọng là do chúng ta biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nhất là trong thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trên thế giới, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, phát triển bình đẳng, tiến bộ của các quốc gia dân tộc. Xét về bản chất, đường lối đối ngoại trên đây của Việt Nam chính là sự vận dụng sáng tạo của Đảng, Nhà nước ta quan điểm của V.I. Lê-nin về “cùng tồn tại hòa bình” giữa các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, vào bối cảnh trong nước và quốc tế mới hiện nay. 
Như vậy, với những phân tích trên đây làm sao có thể nói rằng, chủ nghĩa Mác - Lê-nin là “xa lạ”, là “không phù hợp” với Việt Nam được (!).
Từ những phân tích trên đây, có cơ sở để khẳng định:
Thứ nhất, học thuyết Mác - Lê-nin có sức sống mãnh liệt và có giá trị thời đại, bởi vì đây là học thuyết khoa học và cách mạng. Học thuyết đó là cơ sở thế giới quan, cơ sở phương pháp luận khoa học của nhân loại và gợi mở cho sự nghiên cứu tiếp tục trong tương lai của loài người. Học thuyết Mác - Lê-nin, cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh, thực sự trở thành nền tảng tư tưởng lý luận, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng ta trong lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN
Thứ hai, là học thuyết khoa học và đúng đắn, nhưng học thuyết Mác - Lê-nin cũng là sản phẩm của thời đại, của hoàn cảnh lịch sử nhất định, nên không thể đưa ra những giải đáp đầy đủ, chi tiết, cặn kẽ mọi vấn đề, ở mọi thời đại, của mọi quốc gia. Do vậy, cần phải xem học thuyết Mác - Lê-nin là học thuyết mở, phải được bổ sung, phát triển không ngừng cùng với tiến trình phát triển tri thức, khoa học, thực tiễn của nhân loại. Khi vận dụng các nguyên lý cơ bản của học thuyết đó, nhất thiết phải dựa vào điều kiện lịch sử - cụ thể của từng nước để vận dụng một cách sáng tạo. Những thắng lợi mang tính lịch sử của cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng Cộng sản lãnh đạo là minh chứng thuyết phục nhất về sự vận dụng sáng tạo và sự đóng góp cho phát triển học thuyết Mác - Lê-nin của Đảng ta, của nhân dân ta.
Thứ ba, vận dụng lý luận vào thực tiễn là con đường cam go, khúc khuỷu, phải có cơ chế thích hợp và đòi hỏi thái độ khách quan, khoa học, trung thực thì mới thành công.
Những kết luận rút ra trên đây cũng hoàn toàn đúng với việc nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lê-nin ở Việt Nam chúng ta.
Ở Việt Nam, kể từ “Đường kách mệnh” do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo và Luận cương chính trị do Hội nghị Trung ương tháng 10-1930 thông qua cho đến nay, Đảng ta đều khẳng định chủ nghĩa Mác - Lê-nin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng. Từ Đại hội VII đến nay có sự bổ sung mới: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng của Đảng...”. Ngay từ năm 1991, Đại hội VII đã khẳng định: “...tư tưởng Hồ Chí Minh chính là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong điều kiện cụ thể của nước ta, và trong thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và của cả dân tộc; Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân trọn vẹn nhất cho sự kết hợp đó, là tiêu biểu sáng ngời cho sự kết hợp giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội”(9). 
Bước vào thế kỷ XXI, sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, xu thế toàn cầu hóa với xung lực là kinh tế tri thức đang tiến với tốc độ “một ngày bằng cả trăm năm” đã và đang đặt ra trước toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta những trọng trách mới, ngày càng to lớn, phức tạp và khó khăn hơn. Nói cách khác, khi lịch sử thế giới bước vào thời kỳ phát triển mạnh mẽ, hơn bao giờ hết, hàng loạt vấn đề vừa có ý nghĩa chiến lược, vừa cơ bản, vừa cấp bách đặt ra mệnh hệ tới tương lai của dân tộc đang đòi hỏi Đảng ta phải tìm câu trả lời cấp bách, trong lúc những vấn đề mới mẻ và khó khăn ấy, mà sinh thời các nhà kinh điển không và không thể để lại một lời chỉ dẫn nào cụ thể cả. 
Cố nhiên, như trên đã trình bày, chúng ta không thể phủ nhận một điều là, những thập niên 70, 80, nhất là đầu những năm 90 của thế kỷ XX, trong quá trình hiện thực hóa lý luận mác-xít đó, những người cộng sản gặp phải khó khăn to lớn. Đặc biệt, khi lịch sử phát triển nhân loại ở vào tình thế có tính bước ngoặt, khi xu thế toàn cầu hóa trở thành phổ biến với những xung lực mạnh mẽ, công việc đó càng trở nên khó khăn gấp bội. Giai cấp công nhân mà đứng đầu là đảng cách mạng của nó đã, đang và tiếp tục đủ sức gánh vác trọng trách đó của lịch sử XHCN, khi biết dựa vào sự chỉ dẫn của lịch sử phong trào XHCN, biết cách vượt lên những thách thức “mất, còn” của thời đại và điều cơ bản, có ý nghĩa quyết định nhất là phải biết trở về với chủ nghĩa Mác - Lê-nin một cách kiên định và sáng tạo. 
Do đó, trong công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, chúng ta càng phải trở về với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách trung thành và sáng tạo. Nguyên tắc bất di bất dịch là, cần nghiên cứu và thấu triệt nó với tư cách không chỉ là nền tảng lý luận chính trị về phương diện chính trị - xã hội, một cương lĩnh chính trị - khoa học về mặt hành động cách mạng, một chỉnh thể toàn vẹn về mặt cấu trúc hệ thống, một thực thể vận động và thống nhất trên bình diện khoa học - thực tiễn mà còn là một lý thuyết - thực tiễn mở về phương diện xã hội - lịch sử và là một tổng thể phương pháp luận khoa học và cách mạng, như chính bản thân học thuyết Mác - Lê-nin chứa đựng và thể hiện.
Qua thử thách và sự kiểm nghiệm của thực tiễn lịch sử, điều ngày càng sáng tỏ là, do sự kết tinh những tư cách và phẩm chất đó, chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tự nó đã là một khoa học mang tính cách mạng sâu sắc. Vì, nó là học thuyết không chỉ nhằm giải thích thế giới mà quan trọng hơn là, nhằm cải tạo thế giới. Nói cách khác, chủ nghĩa Mác - Lê-nin tuyệt đối không phải là thứ khoa học tự thân mà là khoa học về cách mạng, khoa học của thực tiễn và vì thực tiễn lịch sử cách mạng nhằm tới mục tiêu giải phóng con người khỏi sự chế ngự bởi “vương quốc tất yếu”, để bước tới “vương quốc tự do”. Vì thế, tự nó hàm chứa khả năng tự phát triển, tự sáng tạo không ngừng, thông qua cách mạng. Nói kiên định với chủ nghĩa Mác - Lê-nin cũng chính là phải không ngừng phát triển nó bằng thực tiễn cách mạng sáng tạo; đồng thời, tỉnh táo chống lại một cách kịp thời và hiệu quả mọi biểu hiện của chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cơ hội và chủ nghĩa xét lại làm vấy bẩn, méo mó và xuyên tạc nó. 
Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu, phát triển học thuyết Mác - Lê-nin thực chất là nghiên cứu, phát hiện và tổng kết những vấn đề mang tính quy luật, những quy luật của sự vận động xã hội một cách tổng quát, có tính chất chung nhất, mang tính tất yếu nhưng lại được hàm chứa và được thể hiện sinh động ở những thời kỳ lịch sử cụ thể, nhất định, xét trong toàn bộ tiến trình phát triển lịch sử - tự nhiên của nhân loại, vì sự sống còn và phát triển của CNXH trong thế kỷ XXI. 
Theo đó, thực chất của toàn bộ việc nghiên cứu lý luận chính trị của chúng ta là nhằm mục tiêu góp phần xác lập một đường lối chính trị độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo dẫn dắt, chỉ đạo thắng lợi công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng ở nước ta hiện nay trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng trên bình diện thực tiễn, không phải cứ nói tới định hướng XHCN trong công tác nghiên cứu lý luận chính trị là khắc có lý luận đúng đắn về sự nghiệp xây dựng CNXH, cụ thể hơn là đường lối chính trị xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc đúng đắn. Bởi lẽ, một mặt, về phương pháp luận, có định hướng tất có chệch hướng, xét cả trên bình diện vĩ mô lẫn mức vi mô, cả ở quy mô mang tính toàn cục lẫn bộ phận; mặt khác, về tổ chức thực tiễn, tự nó đã chứa đựng sự bất cập kép: hoạch định đường lối chính trị sai quy luật và tổ chức thực thi đường lối chính trị một cách lệch lạc. Trong quá khứ, những sai lầm về thực tiễn đã chứng tỏ cả hai điều này. Bởi vậy, ngay tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994), Đảng ta đã cảnh báo và đặc biệt lo lắng về nguy cơ chệch hướng XHCN, coi đây là nguy cơ đứng hàng thứ nhất trong bốn nguy cơ, trên cả hai bình diện hoạch định đường lối và tổ chức thực tiễn đường lối chính trị của Đảng. 
Nói như vậy để phải ý thức sâu sắc rằng, vấn đề giữ vững định hướng XHCN trong nghiên cứu lý luận chính trị trên nền tảng học thuyết Mác - Lê-nin có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, quyết định sự thành bại của Đảng ta, của sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta hiện nay và của dân tộc, của đất nước trong tương lai. Đó là bài học thành hay bại của chúng ta trong thực tiễn xây dựng CNXH mấy thập niên vừa qua; cũng là bài học thất bại của các đảng cộng sản cầm quyền tại các nước XHCN ở Liên Xô và Đông Âu trong thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, khi chệch hướng hay lạc hướng về mặt kiến tạo đường lối chính trị, rộng hơn là lý luận chính trị. Chính từ sự phát triển phức tạp và khó khăn của thực tiễn cách mạng cho thấy, không gì có thể thực tiễn hơn, khi chúng ta có một lý luận khoa học và cách mạng dẫn đường. Ở đâu và lúc nào công tác lý luận không được coi trọng đúng mức thì ở đó và lúc đó xảy ra tình trạng khủng hoảng lý luận và lý luận tụt hậu; theo đó, công tác tổ chức thực tiễn sẽ hết sức chệch choạc, thậm chí gặp khó khăn và đổ vỡ. Thực tiễn xác nhận, chỉ có xuất phát từ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tổ chức tốt thực tiễn, kịp thời và thường xuyên tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng là con đường duy nhất đúng để phát triển và bảo vệ lý luận cách mạng mới tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng không ngừng tiến lên. 
Đó chính là mục đích, con đường, môi trường, là bước đi, thước đo hiệu quả, là thách thức, vận hội phát triển và là chân trời của sự sáng tạo của công tác lý luận hiện nay nhằm xây dựng và phát triển nền tảng tư tưởng chính trị dẫn dắt sự nghiệp đổi mới xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam đi tới tương lai; đồng thời, xác nhận thái độ, bản lĩnh, năng lực và đạo lý của chúng ta đối với học thuyết mác-xít.
Bởi, xét cho cùng, toàn bộ công tác lý luận của chúng ta, về thực chất, là nhằm tới mục đích xây dựng một đường lối chính trị độc lập, tự chủ và sáng tạo về lý luận của Đảng để chỉ đạo thắng lợi công cuộc xây dựng CNXH trên đất nước ta, theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Lịch sử Đảng ta hơn 84 năm qua xác nhận: do kiên định và vận dụng linh hoạt, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó tìm đúng bản chất, quy luật vận động đặc thù của xã hội Việt Nam và xu thế vận động tất yếu của thời đại; đồng thời, đấu tranh một cách kiên quyết chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa cơ hội..., Đảng ta đã xây dựng thành công một đường lối cách mạng độc lập, tự chủ và sáng tạo của cách mạng nước ta. Ở tầm vĩ mô, công tác lý luận đã góp phần quan trọng trong việc kiến giải hàng loạt vấn đề khoa học - thực tiễn rất cơ bản và quan trọng, tiếp tục đưa đất nước vượt qua những khó khăn, thử thách tiếp tục phát triển trên con đường XHCN, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là những vấn đề về đặc điểm và nội dung của thời đại ngày nay; về mô hình và con đường XHCN ở Việt Nam; về sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; về phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN; về chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế; về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; về xây dựng Đảng ngang tầm sự nghiệp đổi mới đất nước,... Tất cả sự nỗ lực đó của công tác lý luận đã trực tiếp góp phần làm cho “con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn”, đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng kéo dài suốt hai thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, bước vào thời kỳ phát triển mới ở thế kỷ XXI với thế và lực mới, với một gia tốc mới, như bất cứ ai đều thấy. 
Đó chính là một trong những bài học lịch sử vô giá làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam, góp phần vào sự phát triển sáng tạo và bảo vệ thành công chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trên cơ sở bảo đảm sự thống nhất giữa lý luận cách mạng và thực tiễn cách mạng nhằm vừa nâng cao trình độ lý luận, vừa đẩy mạnh năng lực tổ chức thực tiễn cách mạng./.
                                                                 -----------------------------------

(1) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 23, tr. 50
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t. 10, tr. 128
(3) Đánh giá của Đại hội Mác quốc tế họp ở Pa-ri từ ngày 27 đến 30-9-1995 nhân kỷ niệm 100 năm chủ nghĩa Mác với 500 đại biểu của gần 100 viện nghiên cứu, tạp chí mác-xít và 30 trường đại học từ 22 nước trên thế giới (xem: Tạp chí Cộng sản, số 9, 5-1996)
(4) Đánh giá của Tuần báo Giải phóng, ngày 7-7-1995, tiếng nói của hàng vạn chiến sĩ cách mạng các nước Mỹ La-tinh, cư trú ở Thụy Điển (xem: Tạp chí Cộng sản, số 1, 1-1996)
(5), (6) V.I. Lê-nin: Sđd, t. 6, tr. 30, 32
(7) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 2, tr. 267 - 268
(8) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 12, tr. 92
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 127 - 128

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét