Lời giới thiệu
Thế giới xưa và nay là các cuộc thử
nghiệm của loài người nhằm tiến bộ. Lịch sử nói nên rằng, không dễ gì có một lý
thuyết mang giá trị phổ quát phủ lên chiều dài nhân loại. Loài người bế tắc,
sai lầm lối tiếp xen kẽ những sáng tạo. Văn minh Đông -Tây tìm đến nhau nhưng không
thay thế nhau, tiếp nhận nhau với tỷ lệ khác nhau. Trong thiên niên kỷ mới, các
giá trị mới sinh ra và tái hiện những sai lầm của lịch sử (bóng ma luôn nhiều
hơn bóng người hiện tại). Nhân loại dường như lười nhác ỷ thế vào văn minh khoa
học, vào kinh nghiệm, và cả sự hiện hữu cho rằng luôn luôn đúng…. tàn phá thiên
nhiên, ích kỷ, vô cảm, vô đạo không kém đã từng!
-Bài của TBT TCCS Vũ Văn Phúc không
sai nhưng thiếu, dài nhưng không chặt chẽ. Ông liệt kê và nhận định kiểu mặc
định. Đây cũng là một phương pháp khoa học cổ điển có vẻ như những thầy tu,
linh mục của thời trung cổ bảo thủ chống lại Galile và Copecnic!
-Bài của tác giả 65 tuổi Đảng,Trung
Hà thể hiện tinh thần phản biện, tuy nhiên ông hướng mạnh vào quan điểm, tư
tưởng HCM, đúng, nhưng HCM không phải là toàn Đảng, toàn dân. Cách lập luận của
ông liên tưởng đến phương pháp luận “sùng bái cá nhân” mà cá nhân không bao giờ
làm nên lịch sử; nhân dân làm nên lịch sử nhưng lịch sử chẳng bao giờ tuân theo
ý chí con người!
Sự hạn chế cách diễn đạt và tranh
luận ngày hôm nay khá phổ biến. Tại sao chúng ta không dám xưng quan điểm riêng,
mới của ĐCSVN mà không nhất thiết phải níu kéo quá khứ, dù quá khứ đó từng tích
cực. Cần đổi mới lý luận hơn lúc nào hết.
-Đây là hai bài viết có giá trị học
thuật hơn, là sự minh chứng cho mối quan tâm lớn về lý luận của ĐCSVN trong
trăm năm tới; tiếc thay vẫn là cách nhìn phiến diện trong khuôn khổ bài viết,
và tệ hơn là cách tầm chương trích cú khá “hủ học”. Chúng ta cần cách nhìn mới
hơn bằng cảm thức hiện tại hướng tương lai!
Trân trọng
cảm ơn hai tác giả, xin được phép giới
thiệu bạn đọc.
Phải chăng đây là sự hiểu biết “sâu sắc” về chủ nghĩa
Mác – Lê-nin ?
Qua đọc bài viết của PGS, TS Vũ Văn Phúc với tựa đề : “Phải
chăng chủ nghĩa Mác – Lê-nin là ngoại lai, bắt nguồn từ phương Tây nên không
còn phù hợp với Việt Nam” đăng trên TCCS ngày 24/4/2014, tôi thấy cần
góp ý vài điều như sau :
1-Về chủ nghĩa cộng sản :
Phải chăng tác giả không biết hay đã cố tình bỏ qua
những thay đổi trong quan điểm của Mác, Ăng-ghen về chủ nghĩa cộng sản. Thể
hiện trong lời nói đầu của cuốn “Đấu tranh giai cấp ở Pháp”, xuất
bản ngày 6/3/1895 Ăng-ghen đã viết : “Lịch sử chứng tỏ chúng ta đang mắc sai
lầm. Quan điểm của chúng ta hồi đó chỉ là ảo tưởng. Lịch sử còn làm được nhiều
hơn, không những đã xóa bỏ những mê muội của chúng ta hồi đó mà còn thay đổi
điều kiện đấu tranh của giai cấp vô sản, phương pháp đấu tranh năm 1848 nay đã
lỗi thời về mọi mặt…Chẳng có mục tiêu lớn “CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN” gì cả, đó chỉ là
một mệnh đề được người khai sáng chủ nghĩa Mác đề xuất lúc trẻ nhưng đã vứt bỏ
lúc cuối đời”. (Tạp chí Thông tin lý luận số 10/2007).
2- Về sự khác nhau giữa Mác và
Lê-nin
Không có lẽ tác giả không thấy được sự khác nhau giữa
Mác và Lê-nin
Sau khi công bố “Tuyên ngôn của đảng cộng sản”,
Mác, Ăng-ghen đã thành lập tổ chức Quốc tế cộng sản (Quốc tế I - 1864) để chỉ
đạo thực hiện… Song thực tiễn cuộc sống diễn ra mấy thập kỷ sau đó đã khiến cho
các ông nhận ra sai lầm và tự mình phủ định những quan điểm trước đó để đổi mới
tư duy : tuyên bố giải tán Quốc tế cộng sản (1876), thay đổi mục tiêu và phương
pháp đấu tranh theo hướng xã hội dân chủ…
Nhưng Lê-nin đã không hưởng ứng những sự thay đổi đó
mà vẫn kiên trì bám theo những luận điểm ban đầu của Mác về bạo lực cách mạng
và xây dựng xã hội cộng sản dựa trên nền tảng đấu tranh giai cấp, chuyên chính
vô sản…
Sau khi Mác và Ăng-ghen qua đời, Lê-nin đã kịch liệt
phê phán những môn đệ trung thành với những ý tưởng đổi mới của Mác, Ăng-ghen
như Béc-tanh, Cao-ski…coi đó là những kẻ “xét lại”, phản bội…qua tác phẩm :
“Cách mạng vô sản và tên phản bội Cao-sky”. Thực chất là gián tiếp phê phán
Mác, Ăng-ghen.
Lê-nin còn đưa ra luận điểm các nước nông nghiệp
lạc hậu có thể bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa để tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản – trái hẳn với luận điểm của Mác v.v...
3-
Về chủ nghĩa Mác – Lê-nin đối với cách mạng Việt Nam
Tác giả đã cố tình gán ghép về nguyên nhân thắng
lợi của cách mạng VN là sự vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin : “Thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 của nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện, giáo dục, lấy chủ
nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng chính trị, kim chỉ nam cho hành động
cách mạng, là minh chứng thuyết phục nhất chứng tỏ rằng, học thuyết Mác -
Lê-nin đã thực sự đóng vai trò lý luận dẫn đường cho thắng lợi của cách mạng
Việt Nam.”Một sự ngộ nhận hết sức sai lầm.
Chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào Việt Nam thông qua Hồ Chí
Minh như thông qua một bộ tinh lọc và có những bổ sung cực kỳ sáng tạo ngoài
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Chính vì vậy mới có được những
thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam
trong thế kỷ XX .
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí
Minh bao giờ cũng đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Lý luận
Mác – Lê-nin nhấn mạnh đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản, nhưng Hồ Chí
Minh lại cho rằng :
“ Nghe
người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng đề ra khẩu hiệu giai cấp
đấu tranh mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng” (HCM toàn tập, tập 5, tr 272).
“Trong lúc cần
toàn dân đoàn kết mà chủ trương giai cấp đấu tranh là một điều ngu ngốc” (XYZ ,Duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, Ban THTW, 1949).
Về lực lượng cách mạng : Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết mọi lực lượng có thể
đoàn kết được, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo...với khẩu hiệu : “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn
kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Kết quả là sự ra đời của
Mặt trận Việt Minh (1941) đã quy tụ được sức mạnh của toàn dân tiến hành thắng
lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.
Sau khi giành được chính quyền trong cách mạng Tháng
8/1945, Hồ Chí Minh không tuyên bố xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản mà chủ
trương thiết lập chế độ dân chủ cộng hòa, (không dập khuôn theo mô hình cộng
hòa xã hội chủ nghĩa của Liên Xô). Rồi sau đó thành lập chính phủ liên hiệp,
gồm những người yêu nước và có năng lực không phân biệt thành phần giai cấp,
dân tộc, tôn giáo….
Như vậy, nguyên nhân căn bản của cuộc đấu tranh giành
được độc lập và kháng chiến thành công là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh
với chủ trương đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế...đã phát huy được
truyền thống yêu nước, chống xâm lược của cả dân tộc và tranh thủ được ủng hộ
của quốc tế...chứ không phải là đã thực hiện theo lý luận về đấu tranh giai
cấp, của chủ nghĩa Mác - Lê-nin (cả Mác và Lê-nin đều không có khái niệm
đại đoàn kết). Nếu thực hiện đúng theo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê-nin thì
không thể có thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng 8/1945 và thành công rực rỡ
của hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ.
Từ những điều
kể trên cho thấy những quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ bản là khác biệt so với
các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Nếu như quy luật nhận thức của mỗi người đối với sự
vật, hiện tượng khách quan là một quá trình... thì có thể thấy rõ nhận thức,
quan điểm của Hồ Chí Minh đối với chủ nghĩa cộng sản cũng không ngoài quy luật
đó.Với những quan sát và trải nghiệm trên khắp năm châu bốn biển trong suốt cả
cuộc đời, quan tâm nghiên cứu đủ các loại học thuyết, các chủ nghĩa trên thế
giới…Người cũng mong muốn có một xã hội cộng sản chủ nghĩa như ước mơ của Mác,
nhưng đã sớm nhận ra đó chỉ là ý tưởng cao đẹp, nhưng không có khả năng
biến thành hiện thực. Tuy nhiên mục tiêu giành và giữ độc lập cho đất nước giữa
thế kỷ 20 đòi hỏi phải tranh thủ sự giúp đỡ của phong trào cộng sản quốc tế, vì
vậy đành phải chấp nhận thực hiện một số điều ngoài ý muốn...Cho đến những năm
cuối đời (1965 – 1969) Hồ Chí Minh đã dành thời gian nghiền ngẫm, cẩn trọng
biên soạn một bản Di chúc tâm huyết để lại cho toàn đảng, toàn dân, đề cập đến
mọi vấn đề hệ trọng của đất nước, song trong đó không có lời nào
căn dặn phải đưa nước ta đi lên chủ nghĩa cộng sản mà chỉ nhấn mạnh rằng
: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là : Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn
đấu xây dựng một nước Việt Nam HÒA BÌNH, THỐNG NHẤT, ĐỘC LẬP, DÂN CHỦ VÀ GIẦU
MẠNH, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
4- Ca ngợi một chiều thắng lợi, cố tình lẩn tránh,
không đề cập đến những sai lầm, thất bại của đảng trong các thời kỳ chủ trương
thực hiện theo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin :
- Những
năm 30 của thế kỷ XX, Trần Phú thực hiện theo chỉ đạo của Quốc tế cộng sản
(Đệ tam) chủ trương đặt nhiệm vụ đấu tranh giai cấp lên hàng đầu, dẫn đến thất
bại của cuộc khởi nghĩa Xô- viết Nghệ Tĩnh với khẩu hiệu : “Trí, phú, địa, hào, đào tận
gốc, trốc tận rễ”.
-Từ 1953 đến 1956 : Tiến hành cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức
theo sự áp đặt của Liên xô, Trung Quốc ... phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc, gây nên một trong hậu
quả nặng nề trong lịch sử của đất nước.
-Từ 1976 đến 1985 : Thực
hiện chuyên chính vô sản, triệt để cải tạo công thương nghiệp, xóa bỏ giai cấp
tư sản, kinh tế tư nhân, đối xử tệ bạc và thành kiến nặng nề với những người đã
làm việc trong bộ máy chính quyền cũ...Xây dựng nền kinh tế theo lý luận của
chủ nghĩa Mác – Lê-nin và mô hình cộng hòa XHCN xô viết của Liên xô...kết quả
đưa đất nước vào một thời kỳ khủng
hoảng trầm trọng.
Thử đặt câu hỏi : nguyên nhân căn bản của những lần thất bại đó là gì ? Phải
chăng cũng đều là do lãnh đạo đã đi chệch khỏi lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê-nin
? Câu trả lời là trái lại, vì đã làm đúng lý luận về đấu tranh giai cấp, chuyên
chính vô sản và xây dựng chế độ XHCN để tiến lên chủ nghĩa cộng sản !
5-Về nguyên nhân sụp đổ của LX và các nước XHCN Đông Âu
Tác giả cho rằng “ ...bắt đầu từ sai lầm trong xây
dựng đường lối lãnh đạo của Đảng cầm quyền ở đó, do đi chệch khỏi chủ nghĩa Mác
- Lê-nin chân chính, mà còn là sự xét lại và phản bội chủ nghĩa xã hội khoa
học; đồng thời không thể không kể đến những âm mưu thâm độc trong chiến lược
“diễn biến hòa bình” mà chính chủ nghĩa đế quốc quốc tế sử dụng...”
Về vấn đề này trong bài “Cận
cảnh Liên xô và Đông Âu sụp đổ “ đăng trên báo Tuanvietnamnet –
7/11/2013, thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện chiến lược Bộ công
an phân tích như sau :
“Một là, Đảng cộng sản Liên Xô đã vi phạm
nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng. Đi liền với nó là các bệnh
tật: độc đoán, chuyên quyền, không chấp nhận những ý kiến khác với mình; coi
thường tập thể, coi thường cấp dưới, tự cho mọi ý kiến của mình là chân lý buộc
mọi người phải tuân theo, coi những ai có ý kiến ngược lại là chống đối, thậm
chí là thù địch, khi cần thiết bảo vệ "cái uy" của mình, họ sẵn sàng
đối xử với đồng chí, đồng đội như đối với kẻ thù...
Hai là, Bộ Chính trị, BCHTƯ Đảng cộng sản
Liên Xô đã quan liêu xa rời thực tiễn, để mất quan hệ máu thịt giữa Đảng CSLX
với nhân dân Liên Xô. Tệ quan liêu làm cho những người lãnh đạo các cấp của
Đảng CSLX xa rời thực tế, không có hiểu biết đúng đắn hiện trạng xã hội mà mình
đang lãnh đạo, quản lý. Họ thờ ơ trước những nguyện vọng chính đáng của quần
chúng, thậm chí không có rung động, phản ứng trước những nỗi thống khổ, oan ức
của một bộ phận quần chúng nhân dân, trong đó có cả một bộ phận đảng viên, cán
bộ cấp dưới.
Ba là, những suy thoái về đạo đức, lối
sống của một số lãnh đạo cấp cao giữ vai trò chủ chốt với những biểu hiện nổi
bật: Sống ích kỷ, đặt lợi ích của bản thân, gia đình và người thân lên trên lợi
ích của đảng, của nhân dân; cục bộ địa phương, kéo bè kéo cánh đưa những người
thân tín với mình, kể cả những người yếu về năng lực, kém về đạo đức, lối sống
vào những vị trí lãnh đạo để làm vây cánh, che chắn bảo vệ mình; tham ô, sống
xa hoa, nói một đằng làm một nẻo, cá biệt còn tha hoá, suy đồi về đạo đức, lối
sống.
Trên đây là những biểu hiện nổi bật chủ yếu sự thoái
hoá của một bộ phận cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Liên Xô, nhất là các
cán bộ chủ chốt ở cấp cao.
Chỉ khi nào sự thoái hóa, biến chất diễn ra tại trung
tâm quyền lực (chóp bu) của Đảng thì mới trở thành nguy cơ đối với Đảng, đó là
đêm trước của sự tan rã, sụp đổ. Đảng cộng sản Liên Xô và các "phiên
bản" Đông Âu của nó thuộc trường hợp này.”
Tham khảo thêm nhận xét TRUNG HÀ
Qua đọc bài viết của PGS, TS Vũ Văn Phúc với tựa đề : “Phải
chăng chủ nghĩa Mác – Lê-nin là ngoại lai, bắt nguồn từ phương Tây nên không
còn phù hợp với Việt Nam” đăng trên TCCS ngày 24/4/2014, tôi thấy cần
góp ý vài điều như sau :
1-Về chủ nghĩa cộng sản :
Phải chăng tác giả không biết hay đã cố tình bỏ qua
những thay đổi trong quan điểm của Mác, Ăng-ghen về chủ nghĩa cộng sản. Thể
hiện trong lời nói đầu của cuốn “Đấu tranh giai cấp ở Pháp”, xuất
bản ngày 6/3/1895 Ăng-ghen đã viết : “Lịch sử chứng tỏ chúng ta đang mắc sai
lầm. Quan điểm của chúng ta hồi đó chỉ là ảo tưởng. Lịch sử còn làm được nhiều
hơn, không những đã xóa bỏ những mê muội của chúng ta hồi đó mà còn thay đổi
điều kiện đấu tranh của giai cấp vô sản, phương pháp đấu tranh năm 1848 nay đã
lỗi thời về mọi mặt…Chẳng có mục tiêu lớn “CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN” gì cả, đó chỉ là
một mệnh đề được người khai sáng chủ nghĩa Mác đề xuất lúc trẻ nhưng đã vứt bỏ
lúc cuối đời”. (Tạp chí Thông tin lý luận số 10/2007).
2- Về sự
khác nhau giữa Mác và Lê-nin
Không có lẽ tác giả không thấy được sự khác nhau giữa
Mác và Lê-nin
Sau khi công bố “Tuyên ngôn của đảng cộng sản”,
Mác, Ăng-ghen đã thành lập tổ chức Quốc tế cộng sản (Quốc tế I - 1864) để chỉ
đạo thực hiện… Song thực tiễn cuộc sống diễn ra mấy thập kỷ sau đó đã khiến cho
các ông nhận ra sai lầm và tự mình phủ định những quan điểm trước đó để đổi mới
tư duy : tuyên bố giải tán Quốc tế cộng sản (1876), thay đổi mục tiêu và phương
pháp đấu tranh theo hướng xã hội dân chủ…
Nhưng Lê-nin đã không hưởng ứng những sự thay đổi đó
mà vẫn kiên trì bám theo những luận điểm ban đầu của Mác về bạo lực cách mạng
và xây dựng xã hội cộng sản dựa trên nền tảng đấu tranh giai cấp, chuyên chính
vô sản…
Sau khi Mác và Ăng-ghen qua đời, Lê-nin đã kịch liệt
phê phán những môn đệ trung thành với những ý tưởng đổi mới của Mác, Ăng-ghen
như Béc-tanh, Cao-ski…coi đó là những kẻ “xét lại”, phản bội…qua tác phẩm :
“Cách mạng vô sản và tên phản bội Cao-sky”. Thực chất là gián tiếp phê phán
Mác, Ăng-ghen.
Lê-nin còn đưa ra luận điểm các nước nông nghiệp
lạc hậu có thể bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa để tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản – trái hẳn với luận điểm của Mác v.v...
3-
Về chủ nghĩa Mác – Lê-nin đối với cách mạng Việt Nam
Tác giả đã cố tình gán ghép về nguyên nhân thắng
lợi của cách mạng VN là sự vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin : “Thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 của nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện, giáo dục, lấy chủ
nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng chính trị, kim chỉ nam cho hành động
cách mạng, là minh chứng thuyết phục nhất chứng tỏ rằng, học thuyết Mác -
Lê-nin đã thực sự đóng vai trò lý luận dẫn đường cho thắng lợi của cách mạng
Việt Nam.”Một sự ngộ nhận hết sức sai lầm.
Chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào Việt Nam thông qua Hồ Chí
Minh như thông qua một bộ tinh lọc và có những bổ sung cực kỳ sáng tạo ngoài
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Chính vì vậy mới có được những
thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam
trong thế kỷ XX .
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí
Minh bao giờ cũng đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Lý luận
Mác – Lê-nin nhấn mạnh đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản, nhưng Hồ Chí
Minh lại cho rằng :
“ Nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng đề ra
khẩu hiệu giai cấp đấu tranh mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để
làm cho đúng” (HCM toàn tập, tập 5, tr 272).
“Trong lúc cần toàn dân đoàn kết mà chủ trương giai
cấp đấu tranh là một điều ngu ngốc” (XYZ ,Duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử, Ban THTW, 1949).
Về lực lượng cách mạng : Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết mọi lực lượng có thể
đoàn kết được, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo...với khẩu hiệu :
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Kết
quả là sự ra đời của Mặt trận Việt Minh (1941) đã quy tụ được sức mạnh của toàn
dân tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.
Sau khi giành được chính quyền trong cách mạng Tháng
8/1945, Hồ Chí Minh không tuyên bố xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản mà chủ
trương thiết lập chế độ dân chủ cộng hòa, (không dập khuôn theo mô hình cộng
hòa xã hội chủ nghĩa của Liên Xô). Rồi sau đó thành lập chính phủ liên hiệp,
gồm những người yêu nước và có năng lực không phân biệt thành phần giai cấp,
dân tộc, tôn giáo….
Như vậy, nguyên nhân căn bản của cuộc đấu tranh giành
được độc lập và kháng chiến thành công là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh
với chủ trương đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế...đã phát huy được
truyền thống yêu nước, chống xâm lược của cả dân tộc và tranh thủ được ủng hộ
của quốc tế...chứ không phải là đã thực hiện theo lý luận về đấu tranh giai
cấp, của chủ nghĩa Mác - Lê-nin (cả Mác và Lê-nin đều không có khái niệm
đại đoàn kết). Nếu thực hiện đúng theo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê-nin thì
không thể có thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng 8/1945 và thành công rực rỡ
của hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ.
Từ những điều kể trên cho thấy những quan điểm của Hồ
Chí Minh về cơ bản là khác biệt so với các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Nếu như quy luật nhận thức của mỗi người đối với sự
vật, hiện tượng khách quan là một quá trình... thì có thể thấy rõ nhận thức,
quan điểm của Hồ Chí Minh đối với chủ nghĩa cộng sản cũng không ngoài quy luật
đó.Với những quan sát và trải nghiệm trên khắp năm châu bốn biển trong suốt cả
cuộc đời, quan tâm nghiên cứu đủ các loại học thuyết, các chủ nghĩa trên thế
giới…Người cũng mong muốn có một xã hội cộng sản chủ nghĩa như ước mơ của Mác,
nhưng đã sớm nhận ra đó chỉ là ý tưởng cao đẹp, nhưng không có khả năng
biến thành hiện thực. Tuy nhiên mục tiêu giành và giữ độc lập cho đất nước giữa
thế kỷ 20 đòi hỏi phải tranh thủ sự giúp đỡ của phong trào cộng sản quốc tế, vì
vậy đành phải chấp nhận thực hiện một số điều ngoài ý muốn...Cho đến những năm
cuối đời (1965 – 1969) Hồ Chí Minh đã dành thời gian nghiền ngẫm, cẩn trọng
biên soạn một bản Di chúc tâm huyết để lại cho toàn đảng, toàn dân, đề cập đến
mọi vấn đề hệ trọng của đất nước, song trong đó không có lời nào
căn dặn phải đưa nước ta đi lên chủ nghĩa cộng sản mà chỉ nhấn mạnh rằng
: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là : Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn
đấu xây dựng một nước Việt Nam HÒA BÌNH, THỐNG NHẤT, ĐỘC LẬP, DÂN CHỦ VÀ GIẦU
MẠNH, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
4- Ca ngợi một chiều thắng lợi, cố tình lẩn tránh,
không đề cập đến những sai lầm, thất bại của đảng trong các thời kỳ chủ trương
thực hiện theo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin :
- Những năm
30 của thế kỷ XX, Trần Phú thực hiện theo chỉ đạo của Quốc tế cộng sản (Đệ tam)
chủ trương đặt nhiệm vụ đấu tranh giai cấp lên hàng đầu, dẫn đến thất bại của
cuộc khởi nghĩa Xô- viết Nghệ Tĩnh với khẩu hiệu : “Trí, phú, địa, hào, đào tận
gốc, trốc tận rễ”.
-Từ 1953 đến
1956 : Tiến hành cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức theo sự áp đặt của Liên
xô, Trung Quốc ... phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc, gây nên một trong hậu quả
nặng nề trong lịch sử của đất nước.
-Từ 1976 đến 1985 : Thực hiện chuyên chính vô sản, triệt để cải tạo
công thương nghiệp, xóa bỏ giai cấp tư sản, kinh tế tư nhân, đối xử tệ bạc và
thành kiến nặng nề với những người đã làm việc trong bộ máy chính quyền
cũ...Xây dựng nền kinh tế theo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin và mô hình
cộng hòa XHCN xô viết của Liên xô...kết quả đưa đất nước vào một thời kỳ khủng
hoảng trầm trọng.
Thử đặt câu hỏi : nguyên nhân căn bản của những lần thất bại đó là gì ? Phải
chăng cũng đều là do lãnh đạo đã đi chệch khỏi lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê-nin
? Câu trả lời là trái lại, vì đã làm đúng lý luận về đấu tranh giai cấp, chuyên
chính vô sản và xây dựng chế độ XHCN để tiến lên chủ nghĩa cộng sản !
5-Về nguyên nhân sụp đổ của LX và các nước XHCN Đông Âu
Tác giả cho rằng “ ...bắt đầu từ sai lầm trong xây
dựng đường lối lãnh đạo của Đảng cầm quyền ở đó, do đi chệch khỏi chủ nghĩa Mác
- Lê-nin chân chính, mà còn là sự xét lại và phản bội chủ nghĩa xã hội khoa
học; đồng thời không thể không kể đến những âm mưu thâm độc trong chiến lược
“diễn biến hòa bình” mà chính chủ nghĩa đế quốc quốc tế sử dụng...”
Về vấn đề này trong bài “Cận cảnh Liên xô và Đông Âu
sụp đổ “ đăng trên báo Tuanvietnamnet – 7/11/2013, thiếu tướng Lê Văn Cương,
nguyên Viện trưởng Viện chiến lược Bộ công an phân tích như sau :
“Một là, Đảng cộng sản Liên Xô đã vi phạm
nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng. Đi liền với nó là các bệnh
tật: độc đoán, chuyên quyền, không chấp nhận những ý kiến khác với mình; coi
thường tập thể, coi thường cấp dưới, tự cho mọi ý kiến của mình là chân lý buộc
mọi người phải tuân theo, coi những ai có ý kiến ngược lại là chống đối, thậm
chí là thù địch, khi cần thiết bảo vệ "cái uy" của mình, họ sẵn sàng
đối xử với đồng chí, đồng đội như đối với kẻ thù...
Hai là, Bộ Chính trị, BCHTƯ Đảng cộng sản
Liên Xô đã quan liêu xa rời thực tiễn, để mất quan hệ máu thịt giữa Đảng CSLX
với nhân dân Liên Xô. Tệ quan liêu làm cho những người lãnh đạo các cấp của
Đảng CSLX xa rời thực tế, không có hiểu biết đúng đắn hiện trạng xã hội mà mình
đang lãnh đạo, quản lý. Họ thờ ơ trước những nguyện vọng chính đáng của quần
chúng, thậm chí không có rung động, phản ứng trước những nỗi thống khổ, oan ức
của một bộ phận quần chúng nhân dân, trong đó có cả một bộ phận đảng viên, cán
bộ cấp dưới.
Ba là, những suy thoái về đạo đức, lối
sống của một số lãnh đạo cấp cao giữ vai trò chủ chốt với những biểu hiện nổi
bật: Sống ích kỷ, đặt lợi ích của bản thân, gia đình và người thân lên trên lợi
ích của đảng, của nhân dân; cục bộ địa phương, kéo bè kéo cánh đưa những người
thân tín với mình, kể cả những người yếu về năng lực, kém về đạo đức, lối sống
vào những vị trí lãnh đạo để làm vây cánh, che chắn bảo vệ mình; tham ô, sống
xa hoa, nói một đằng làm một nẻo, cá biệt còn tha hoá, suy đồi về đạo đức, lối
sống.
Trên đây là những biểu hiện nổi bật chủ yếu sự thoái hoá
của một bộ phận cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Liên Xô, nhất là các cán bộ
chủ chốt ở cấp cao.
Chỉ khi nào sự thoái hóa, biến chất diễn ra tại trung
tâm quyền lực (chóp bu) của Đảng thì mới trở thành nguy cơ đối với Đảng, đó là
đêm trước của sự tan rã, sụp đổ. Đảng cộng sản Liên Xô và các "phiên
bản" Đông Âu của nó thuộc trường hợp này.”
Tham khảo thêm nhận xét của các nhà nghiên cứu
trên thế giớicho thấy: ô...nguyên nhân quan trọng về sự sụp đổ của ĐCSLX sau 74
năm cầm quyền là nạn tham nhũng trong bộ máy lãnh đạo : “sự đồi bại, trụy lạc trở nên phổ
biến, nạn tham ô, hối lộ chính là đặc điểm của thời kỳ Brêgiơnép”, mà điển hình
là Tổng bí thư ! “Brêgiơnép thích câu cá và săn bắn. Việc đi săn và câu cá của
Brêgiơnép cũng gièng như nhà vua đi tuần thú vậy, tiền hô hậu ủng, kéo theo đó
là những buổi yến tiệc linh đình. Lúc này, trong quan chức của Liên Xô thịnh hành
phong cách “tiệc tùng” và “quà biếu”. Mọi người đều coi quà biếu kiểu này như
một “nghi thức giao tiếp bình thường” một người có thể tiếp nhận quà biếu nhiều
nhất không ai khác chính là Tổng bí thư Brêgiơnép...những
chiếc xe hơi được biếu tặng của Brêgiơnép đã chất đầy mấy gara ôtô, súng săn
thì chất đầy một căn phòng lớn ! v.v...” [*] Từ đó mà hình thành cả một
mạng lưới đặc quyền đặc lợi, tham nhũng phổ biến từ trên xuống dưới. (xem :
“Bàn về công tác xây dựng năng lực cầm quyền của đảng” - trang 38, 39 - NXB
Chính trị quốc gia - Hà Nội - 2010).
Mầm mống của sự tan rã
và mất chính quyền của Đảng cộng sản Liên Xô vào năm 1991 chính là ở chỗ đó chứ
đâu phải chỉ vì những sai lầm của Gooc – ba - chôp và sự phá hoại của các thế
lực thù địch bên ngoài. Mặc dù với
hơn 20 triệu đảng viên cộng sản cùng vài chục triệu đoàn viên thanh niên
công-xô-môn với lực lượng quân đội và cảnh sát, an ninh hùng hậu...nhưng khi mà
đại đa số nhân dân đã mất hết lòng tin, đã bất bình và quay lưng lại với đảng
cầm quyền thì không có cách gì có thể cứu vãn được nữa !
Ngoài ra cũng cần phân tích thêm về bức tường Béc-lanh
nổi tiếng ngăn cách 2 miền nước Đức, cũng là để ngăn chặn ảnh hưởng của chủ
nghĩa tư bản thâm nhập vào các nước XHCN từ phía tây, do nước Cộng hòa dân chủ
Đức (Đông Đức), một nước giầu nhất trong phe XHCN làm tiền đồn. Thế mà tự dưng
năm 1989 bức tường đó lại bị đổ ! Phải chăng là do các thế lực thù địch quốc tế
và nhà cầm quyền Tây Đức phá để thôn tính Đông Đức ? Sự thực hoàn toàn ngược
lại, chính là do nhân dân Đông Đức ngày càng bất mãn với chế độ vô sản chuyên
chính mất dân chủ, đời sống ngày tụt hậu, thu nhập bình quân chỉ bằng ¼ so với
Tây Đức...nên số người trốn chạy sang Tây Đức (bằng các ngả đường vòng qua các
nước khác) ngày càng nhiều, số còn lại gây áp lực lớn với chính quyền đòi được
tự do đi lại...buộc lãnh đạo phải nhượng bộ...thế là bức tường Béc-lanh kiên cố
bị vô hiệu hóa ! nói một cách khác là từ trong nhân dân Đông Đức phá ra chứ
không phải từ các thế lực thù địch bên ngoài phá vào. Đó là hệ quả tất yếu của
đường lối lãnh đạo sai lầm theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin v.v...
Mặc dù với hơn 20 triệu đảng viên cộng sản cùng vài
chục triệu đoàn viên thanh niên công-xô-môn với lực lượng quân đội và cảnh sát,
an ninh hùng hậu...nhưng khi mà đại đa số nhân dân đã mất hết lòng tin, đã bất
bình và quay lưng lại với đảng cầm quyền thì không có cách gì có thể cứu vãn
được nữa !
Ngoài ra cũng cần phân tích thêm về bức tường Béc-lanh
nổi tiếng ngăn cách 2 miền nước Đức, cũng là để ngăn chặn ảnh hưởng của chủ
nghĩa tư bản thâm nhập vào các nước XHCN từ phía tây, do nước Cộng hòa dân chủ
Đức (Đông Đức), một nước giầu nhất trong phe XHCN làm tiền đồn. Thế mà tự dưng
năm 1989 bức tường đó lại bị đổ ! Phải chăng là do các thế lực thù địch quốc tế
và nhà cầm quyền Tây Đức phá để thôn tính Đông Đức ? Sự thực hoàn toàn ngược
lại, chính là do nhân dân Đông Đức ngày càng bất mãn với chế độ vô sản chuyên
chính mất dân chủ, đời sống ngày tụt hậu, thu nhập bình quân chỉ bằng ¼ so với
Tây Đức...nên số người trốn chạy sang Tây Đức (bằng các ngả đường vòng qua các
nước khác) ngày càng nhiều, số còn lại gây áp lực lớn với chính quyền đòi được
tự do đi lại...buộc lãnh đạo phải nhượng bộ...thế là bức tường Béc-lanh kiên cố
bị vô hiệu hóa ! nói một cách khác là từ trong nhân dân Đông Đức phá ra chứ
không phải từ các thế lực thù địch bên ngoài phá vào. Đó là hệ quả tất yếu của
đường lối lãnh đạo sai lầm theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin v.v...
T.H
[*] Theo TS Lê Đăng Doanh Viện trưởng CIEM năm
1990: Tổng Bí thư Hô Nếch Cơ (CHDC Đức) và bạn một UVBCT có thú vui đi săn tì
súng lên vai cận vệ, đến mức cận vệ đó bị điếc. Một thú vui vua chúa tái hiện
vào những người lãnh đạo nhà nước XHCN.
Theo Tin tức TTXVN năm 1990, thì ông Xê au xét cu TBT ĐCS Ru Ma ni có con
trai là bí thư tỉnh, cậu này có thú vui đái vào chậu ốc sên, sau đó bắt người
khác luộc ăn…Đó là bệnh hoạn và tội ác của cường hào ác bá xa xưa?
Ở Việt Nam, thời trước 1989, cửa hàng Tôn Đản và Hữu Nghị (Hà Nội) bán nhu
yếu phẩm cho bìa B,A, Đặng Dung bìa C,… cũng là một đặc quyền, dẫu không có gì
giá trị lớn, và quá hiếm, nhưng nó đã thể hiện mầm họa của xã hội, và di chứng
dịch chuyển vào lối sống hôm nay, quan chức nhà nước cố phải “đẳng cấp”, không
chịu thua kém khu vực tư nhân!
Nếp sống đó thể hiện trình độ rất thấp.
([*] ngoài bài viết trên).
Phải chăng chủ nghĩa Mác - Lê-nin là
“ngoại lai, bắt nguồn từ phương Tây nên không còn phù hợp với Việt Nam”
Vũ Văn Phúc - PGS. TS,
Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản
Thực tế lịch sử cho thấy, từ khi hình thành, phát
triển và được xác lập vào cuối thế kỷ XIX, Học thuyết Mác - Lê-nin và những
nguyên lý, quy luật kinh tế - xã hội mà Học thuyết đó phát hiện ra, ngày càng
được chứng minh bằng thực tiễn cuộc sống, được thừa nhận rộng rãi và trở thành
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của giai cấp công nhân,
là vũ khí lý luận sắc bén của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của
các đảng tiên phong, chân chính của giai cấp đó ở trên toàn thế giới, trong đó
có Việt Nam chúng ta.
Suốt hàng thế kỷ qua,
nhất là mấy thập niên cuối thế kỷ XX, đặc biệt sau khi chủ nghĩa xã hội (CNXH)
hiện thực ở Liên Xô và các quốc gia Đông Âu bị sụp đổ, chủ nghĩa Mác - Lê-nin
đã bị xuyên tạc, bóp méo một cách giáo điều hay cơ hội đủ loại. Từ đầu thế kỷ
XXI đến nay, các thủ đoạn xuyên tạc, bóp méo chủ nghĩa Mác - Lê-nin lại gia
tăng về quy mô, đa dạng về hình thức, nguy hiểm về tính chất và càng thâm độc
về mức độ. Các thế lực thù địch âm mưu tấn công thẳng vào học thuyết khoa học
và cách mạng đó nhằm hạ thấp uy tín, kể cả bôi nhọ cuộc đời riêng tư và sự
nghiệp cách mạng của C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V.I. Lê-nin, thực hiện dã tâm phủ
nhận, xóa bỏ toàn bộ chủ nghĩa Mác - Lê-nin trên toàn thế giới, mưu toan phá vỡ
và lật đổ nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng ta. Có thể dễ dàng thấy họ đang
điên cuồng bài bác, trương lên và tung hê các luận điệu rằng: “Học thuyết Mác
là sản phẩm của giữa thế kỷ XIX, do vậy đem đặt nó trong bối cảnh thế kỷ XXI
nếu không lạc hậu, thì cũng chẳng thể là khoa học”(!); “Chủ nghĩa Mác - Lê-nin
là ngoại lai, bắt nguồn từ phương Tây nên không còn phù hợp với Việt Nam”,
v.v.. (!).
Nhưng, sự thật có phải
như các thế lực thù địch của chủ nghĩa Mác - Lê-nin rêu rao như vậy không?
C. Mác, Ph. Ăng-ghen,
V.I. Lê-nin là những nhà khoa học - những nhà cách mạng. Lý tưởng mà các Ông
theo đuổi là khát vọng của nhân loại tiến bộ - con người được giải phóng hoàn
toàn khỏi mọi ách áp bức bóc lột, được ấm no, tự do, hạnh phúc. Thử hỏi rằng,
phải chăng điều thiêng liêng như vậy chỉ có phương Tây cần và lý tưởng của các
Ông chỉ phù hợp với phương Tây - nơi mà chủ nghĩa tư bản đang chà đạp tinh vi,
thâm độc lên số phận mỗi con người, các dân tộc? Chủ nghĩa do các Ông sáng lập
và đấu tranh bảo vệ không mệt mỏi, là nhằm hiện thực hóa lý tưởng đó, trên cơ
sở lịch sử cụ thể, một cách khách quan theo cái lô-gic phát triển tất
yếu của nhân loại, bằng cách “giải phẫu” và biến đổi cách mạng đối với
xã hội đương thời. Nói cách khác, lý luận của các Ông chỉ giúp loài người lựa
chọn điều cần và phải đi con đường dẫn tới xã hội không còn người bóc lột
người, với những lực lượng tiên quyết, những điều
kiện có tính chất cần và đủ, khi đứng ở ngã ba lịch sử của sự lựa chọn
và phải quyết định. Thử hỏi điều đó, phương Đông, nơi khi mà chủ nghĩa thực
dân đang còn giày xéo lên tất cả các dân tộc, dưới gót sắt nô dịch của chúng,
có cần không? hay chỉ phương Tây, nơi chính nhân dân lao động các nước tư bản
chủ nghĩa (TBCN) đang bị giai cấp tư sản cầm tù, mới cần đến?
Sự cần thiết, sự phù
hợp, vai trò cơ sở, nền tảng tư tưởng lý luận, kim chỉ nam cho hành động cách
mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đối với lịch sử phát triển của cách mạng thế
giới và Việt Nam, có thể khái quát ở những điểm chủ yếu dưới đây:
1- Sự vận động, phát
triển từ thời cổ đại đến nay của nhân loại và của lịch sử dân tộc Việt Nam là
bằng chứng rõ ràng chứng tỏ rằng, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
(HTKTXH) của chủ nghĩa Mác - Lê-nin là khoa học, đúng đắn và phản ánh chính xác
lịch sử vận động, phát triển tiến bộ của toàn thể nhân loại, trong đó có dân
tộc Việt Nam.
Mọi người đều biết,
học thuyết HTKTXH là cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -
Lê-nin để tiếp cận nghiên cứu, giải thích, dự báo sự phát triển mang tính lịch
sử - tự nhiên của xã hội loài người nói chung, mỗi dân tộc nói riêng, trong đó
có sự phát triển của lịch sử Việt Nam chúng ta. Học thuyết đó đã chỉ rõ:
- Lịch sử phát triển
của loài người là lịch sử phát triển và thay thế nhau của các HTKTXH, trong đó
sự phát triển của các quan hệ sản xuất theo hướng tiến bộ là cơ sở hạ tầng,
trên đó xây dựng nên kiến trúc thượng tầng thích hợp.
- Lịch sử loài người
đã và đang trải qua 5 HTKTXH. Đó là quy luật chung của sự phát triển của xã hội
loài người; còn mỗi quốc gia dân tộc có thể bỏ qua một hình thái nào đó trong
điều kiện lịch sử của thời đại và dân tộc. Việt Nam bỏ qua sự phát triển HTKTXH
chiếm hữu nô lệ và HTKTXH TBCN là một thực tế lịch sử khách quan không thể phủ
nhận.
Như vậy, các nhà sáng
lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin không chỉ đơn thuần “giải phẫu” các HTKTXH, mà còn
phân tích làm nổi bật lên bản chất và những mâu thuẫn cơ bản trong mỗi HTKTXH
và cuối cùng, dự báo sự thay thế giữa các HTKTXH từ thấp lên cao hoặc tuần tự
hoặc nhảy vọt một cách biện chứng, theo quy luật. Một cách lịch sử - tự nhiên,
cũng như từ chế độ cộng sản nguyên thủy nhân loại bước lên chế độ chiếm hữu nô
lệ rồi chế độ phong kiến tới CNTB, thì sau HTKTXH TBCN ấy phải là một HTKTXH
tiến bộ hơn, đó chính là chủ nghĩa cộng sản (CNCS). Đó là cái tất yếu lịch sử
hợp quy luật mà khoa học mác-xít đã chỉ ra.
Học thuyết Mác -
Lê-nin vì là khoa học và cách mạng triệt để nên nó giải quyết tất cả sự trăn
trở, những yêu cầu tiến bộ của nhân loại cần lao, dù ở phương Đông hay phương
Tây, như chính bản thân nó tỏa sáng. Thực tế lịch sử cho thấy, từ khi chủ nghĩa
Mác hình thành, phát triển vào giữa thế kỷ XIX, hệ thống các tư tưởng, quan
điểm và những nguyên lý, quy luật kinh tế - xã hội mà hệ thống khoa học đó phát
hiện ngày càng được chứng minh bằng thực tiễn cuộc sống, được thừa nhận rộng
rãi và trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của
giai cấp công nhân toàn thế giới, là vũ khí lý luận sắc bén của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động trên các châu lục và của các đảng tiên phong, chân
chính của giai cấp đó, không kể ở Việt Nam hay bất cứ quốc gia, dân tộc nào hay
ở châu lục nào.
Ai cũng có thể thấy,
ngay từ khi mới chỉ là một “bóng
ma” ở châu Âu CNCS khoa học đã được thực nghiệm bằng những cuộc cách
mạng vô sản, nổ ra và thành công, chính quyền công nông được xác lập trong thực
tiễn, CNXH hiện thực đã tồn tại với tư cách là một hệ thống cùng tất cả tính ưu
việt và sức sống mãnh liệt của nó trên thế giới. Nó là linh hồn của các phong
trào tiến bộ, giúp các dân tộc đập tan chủ nghĩa phát-xít, giải phóng khỏi chủ
nghĩa thực dân cũ và mới, giành độc lập dân tộc, dân quyền và tự do cho toàn
thể nhân loại cần lao, chứ đâu của riêng phương trời nào.
C. Mác là nhà khoa học
thiên tài và cách mạng triệt để nhất đã vạch trần một cách chính xác bản chất
bóc lột của chế độ tư bản là bóc lột giá trị thặng dư - thủ phạm cầm tù nhân
dân lao động dù ở chính quốc hay thuộc địa của giai cấp tư sản, kẻ chà đạp lên
độc lập tự do của các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Bản chất bóc lột của
CNTB vẫn không thay đổi, bản chất phản động toàn diện của nền chính trị tư sản
hiện đại vẫn tồn tại, bản chất mâu thuẫn, khủng hoảng và xu hướng diệt vong tất
yếu của CNTB vẫn là vấn đề thời sự của không chỉ thời C. Mác sống và ngay cả
tới tận ngày nay. V.I. Lê-nin chỉ rõ: “Học thuyết của Mác là học thuyết vạn năng vì nó là một
học thuyết chính xác(1). Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chủ nghĩa Lê-nin... không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những
là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng
lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”(2).
Thế nhưng, các quan
điểm sai trái và phản động lại vin vào việc mô hình CNXH ở Đông Âu và Liên Xô
sụp đổ để hô hoán lên rằng, “chủ nghĩa Mác đã thất bại”(!). Và, hôm nay, lại
chính họ đã tự phơi bày một lối hiểu “trích cú”, “tầm chương”, phiến diện và
phản khoa học về chủ nghĩa Mác, khi CNTB đang vùng vẫy trong vũng lầy khủng
hoảng, như theo dự báo của C. Mác và khỏa lấp sự tráo trở đó nhân sự thăng trầm
của CNXH. Những “lý sự” của họ không thể đánh lừa được ai. Lương tri của nhân
loại vẫn rất tỉnh táo và sáng suốt khi đánh giá rằng “chủ nghĩa Mác vẫn giữ nguyên
ý nghĩa và tầm quan trọng của nó trong thế giới hiện đại...”(3), “vẫn luôn luôn
là một căn cứ quyết định cho các tổ chức cách mạng của giai cấp công nhân quốc
tế, cho các đảng cộng sản chân chính đề ra đường lối chiến lược, sách lược cách
mạng của mình”(4). Nó đánh dấu sự phát triển trí tuệ của nhân loại trong thời
đại quá độ từ CNTB lên CNXH. Hơn nữa, chính những người thóa mạ và bôi nhọ C.
Mác, cố tình không hiểu rằng, CNXH ở Liên Xô và Đông Âu (trước đây) sụp đổ
không phải vì tư tưởng khoa học của học thuyết Mác - Lê-nin không còn tính thời
đại, mà là sự phá sản của một đường lối sai lầm, chẳng những sa vào quan liêu
hóa, giáo điều, chủ quan, duy ý chí bắt đầu từ sai lầm trong xây dựng đường lối
lãnh đạo của Đảng cầm quyền ở đó, do đi chệch khỏi chủ nghĩa Mác - Lê-nin chân
chính, mà còn là sự xét lại và phản bội chủ nghĩa xã hội khoa học; đồng thời
không thể không kể đến những âm mưu thâm độc trong chiến lược “diễn biến hòa
bình” mà chính chủ nghĩa đế quốc quốc tế sử dụng. Kẻ thù của các đảng cộng sản
đã lợi dụng triệt để những sai lầm trong đường lối, những khiếm khuyết không
được khắc phục kịp thời trong lãnh đạo và điều hành đất nước của các đảng ở các
nước đó... để mua chuộc, kích động và cổ vũ những phần tử cơ hội bên trong,
khuyến khích những hành động phản cách mạng bên ngoài. Kẻ thù của C. Mác đổ tội
tất cả điều đó cho C. Mác, cho chủ nghĩa Mác - Lê-nin (!).
Nếu ai còn hồ nghi về
điều đó, xin hãy đọc thêm trang htpp://vi.Wikipedia.org/wiki/KarlMacx: Năm
1999, Trường Đại học Cam-brit (Anh) công bố bình chọn nhà tư tưởng số một thiên
niên kỷ thứ 2, kết quả là C. Mác đứng đầu, A. Anh-xtanh - nhà khoa học lớn,
đứng thứ 2. Và mới đây, theo thăm dò của tờ Tạp chí Spiegel (Đức), C. Mác được
ưa chuộng một cách ngạc nhiên - hơn 50% số người dân Đức nói rằng, “sự phê phán
của C. Mác đối với chủ nghĩa tư bản ngày nay vẫn giữ nguyên giá trị”, và thậm
chí hơn 56% cho rằng, “chủ nghĩa xã hội là một tư tưởng hay nhưng thực hành
tồi”; và C. Mác trong giới trẻ còn nhận được sự đồng tình cao hơn nữa. Và, theohttp://ww.guardian.co.uk/politics/jul/17/comment.theo
bserverl, nhà tỷ phú đầu cơ chứng khoán G. Sô-rốt viết: “C. Mác và Ph.
Ăng-ghen đã cho một phân tích rất tốt về hệ thống tư bản từ cách đây 150 năm”.
Rồi, ngay tờ The New Yorker (Mỹ) cũng cho rằng, các nhà kinh tế học hiện đại
đang “bước theo dấu chân của C. Mác mà họ không biết”, trong quá trình giải
quyết các vấn đề mà họ phải đối mặt, bởi chưng lại theo tờ Tạp chí Newsweek
(Mỹ), C. Mác “đã mổ xẻ cái hệ thống trục lợi này tốt hơn ai hết... Như thể C.
Mác đã đội mồ đứng dậy!”. Và thực tế đang chứng minh rằng, chính bản thân CNTB
dù ở phương Đông hay phương Tây (từ Nhật Bản tới Tây Âu rồi Mỹ...) cũng đã và
đang vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin nhằm điều chỉnh, thích nghi để tồn tại đó
thôi.
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin
đã, đang và mãi mãi dẫn dắt cách mạng Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản
Việt Nam, vì chủ nghĩa xã hội, vì lý tưởng góp phần giải phóng toàn thể nhân
loại cần lao, như bất cứ ai không thể không thấy!
2- Chủ nghĩa Mác -
Lê-nin chỉ ra quy luật khách quan của quá trình ra đời, phát triển của CNXH,
CNCS; đồng thời cũng chỉ ra điều kiện chủ quan quyết định của quá trình đó là:
lý luận tiên phong và đảng tiên phong của giai cấp công nhân. Trong Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản, C. Mác - Ph. Ăng-ghen đã nêu rõ tư tưởng về điều
kiện để giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động là phải có “đội tiên
phong với lý luận tiên phong và hành động tiên phong”. C. Mác và Ph. Ăng-ghen
đã ghi rõ rằng, những người cộng sản tuyệt nhiên không có lợi ích nào tách khỏi
lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản. Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là
bộ phận kiên quyết nhất..., là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên;
về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là, họ hiểu rõ
những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản.
Trong tác phẩm “Làm
gì?”, V.I. Lê-nin đã khẳng định: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể
có phong trào cách mạng”(5); “chỉ đảng nào được một lý luận tiên phong
hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong”(6).
Thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 của nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện, giáo dục, lấy chủ
nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng chính trị, kim chỉ nam cho hành động
cách mạng, là minh chứng thuyết phục nhất chứng tỏ rằng, học thuyết Mác -
Lê-nin đã thực sự đóng vai trò lý luận dẫn đường cho thắng lợi của cách mạng
Việt Nam.
Năm 1858, thực dân
Pháp xâm lược Việt Nam. Phát huy truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, các
tầng lớp nhân dân Việt Nam đã đứng lên chống quân xâm lược hơn nửa thế kỷ,
nhưng đã không thành công. Đầu thế kỷ XX phong trào yêu nước theo khuynh hướng
tư sản cũng lần lượt thất bại. Đất nước như không có đường ra.
Năm 1911, người thanh
niên Nguyễn Tất Thành, với tên anh Ba ra đi tìm đường cứu nước. Sau 10 năm
(1911 - 1920) bôn ba khắp các châu lục vừa nghiên cứu lý luận, vừa nghiên cứu
thực tiễn cách mạng trên thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã đi đến kết luận: “Chỉ có
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải phóng triệt để các dân
tộc bị áp bức”. Tiếp đến Người phải qua 10 năm chuẩn bị trên cả ba phương diện:
tư tưởng lý luận, đường lối chính trị, tổ chức cán bộ để đưa tới sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày 3-2-1930). Nói về vai trò của Đảng Cộng sản và lý
luận, trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” xuất bản năm 1927,
Nguyễn Ái Quốc trích câu nói nổi tiếng của V.I. Lê-nin trong tác phẩm “Làm
gì?” và Người đặt câu hỏi: “Cách mệnh, trước hết phải có cái gì?”. Và Người
trả lời rõ rằng: “Trước hết phải có Đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh
mới thành công... Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm nòng cốt, trong đảng
ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa
cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam.
Bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách
mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin”(7).
Trong bài nói chuyện
với lớp bồi dưỡng đảng viên mới do Thành ủy Hà Nội tổ chức năm 1966 Chủ tịch Hồ
Chí Minh tiếp tục khẳng định: “Không có lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học
thì không thể có lập trường giai cấp vững vàng. Vì vậy, các cô, các chú phải
chịu khó học tập lý luận Mác - Lê-nin, học tập đường lối, chính sách của Đảng;
đồng thời phải học tập văn hóa, kỹ thuật và nghiệp vụ”(8).
Trong những năm cuối
đời, khi viết Di chúc, Bác Hồ tiếp tục khẳng định rõ tư tưởng về
vai trò của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và của Đảng Cộng sản.
3- V.I. Lê-nin kế
thừa, phát triển và vận dụng sáng tạo học thuyết của C. Mác vào thực tiễn cách
mạng ở Nga và thế giới, trên cơ sở đó đề ra học thuyết về cách mạng XHCN trong
thời kỳ đế quốc chủ nghĩa.
Trên cơ sở những
nghiên cứu, phân tích về chủ nghĩa đế quốc (CNĐQ), V.I. Lê-nin phát hiện ra
quy luật phát triển không đều về kinh tế và chính trị của CNTB trong thời kỳ
CNĐQ và đi đến kết luận: cách mạng vô sản có thể thắng lợi ở một số
nước hay thậm chí ở một nước riêng lẻ, nơi CNTB chưa phải là phát triển nhất,
nhưng là khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền TBCN. Thắng lợi của Cách
mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã chứng minh cho điều đó. Đồng thời, V.I. Lê-nin
đã đưa ra luận thuyết khoa học và cách mạng về sự quá độ lên CNXH bỏ qua giai
đoạn phát triển TBCN.
Hoàn thành cách mạng
dân tộc, dân chủ nhân dân, Việt Nam chuyển lên tiến hành cách mạng XHCN ở miền
Bắc (từ năm 1954) và trên quy mô cả nước (từ năm 1975). Thắng lợi của nhân dân
Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, thống
nhất Tổ quốc, cả nước cùng quá độ lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ
qua giai đoạn phát triển CNTB, là bằng chứng thực tế đầy thuyết phục chứng tỏ
rằng, học thuyết của V.I. Lê-nin về cách mạng XHCN trong thời đại đế quốc chủ
nghĩa là hoàn toàn đúng đắn, có cơ sở lý luận khoa học, cơ sở thực tiễn, phản
ánh chính xác những nét lớn, cơ bản của thực tiễn lịch sử Việt Nam trong thế kỷ
XX và cả hiện nay.
4- Những thành tựu có
ý nghĩa lịch sử, mang tính bước ngoặt, đặc biệt là những thành tựu của gần 30
năm đổi mới mà Việt Nam đã đạt được, một phần rất quan trọng là do Đảng, Nhà
nước ta đã vận dụng sáng tạo những tư tưởng, quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lê-nin, trong đó có Chính sách kinh tế mới (NEP) của V.I. Lê-nin trong thời kỳ
quá độ lên CNXH.
Như vậy, với NEP, V.I.
Lê-nin đã khẳng định rằng, đi
lên CNXH không phải là xóa bỏ kinh tế thị trường, mà phải sử dụng kinh tế thị
trường; nhưng không phải là thị trường tự do cạnh tranh TBCN, mà có sự điều
tiết của nhà nước; không phải là nền kinh tế của một thành phần kinh tế độc
tôn, mà là nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu,...
Sự vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lê-nin, cụ thể
là NEP của V.I. Lê-nin vào hoàn cảnh, điều kiện Việt Nam được thể hiện đặc biệt
rõ nét trong quan điểm, chủ trương của Đảng ta về phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
5- Những thành tựu mà
Việt Nam đạt được trên mặt trận đối ngoại, một phần rất quan trọng là do chúng
ta biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nhất là trong thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển;
đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế, Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trên thế
giới, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình,
độc lập dân tộc, phát triển bình đẳng, tiến bộ của các quốc gia dân tộc. Xét về
bản chất, đường lối đối ngoại trên đây của Việt Nam chính là sự vận dụng sáng
tạo của Đảng, Nhà nước ta quan điểm của V.I. Lê-nin về “cùng tồn tại hòa bình” giữa các nước có
chế độ chính trị xã hội khác nhau vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, vào bối
cảnh trong nước và quốc tế mới hiện nay.
Như vậy, với những
phân tích trên đây làm sao có thể nói rằng, chủ nghĩa Mác - Lê-nin là “xa lạ”,
là “không phù hợp” với Việt Nam được (!).
Từ những phân tích
trên đây, có cơ sở để khẳng định:
Thứ nhất, học thuyết Mác -
Lê-nin có sức sống mãnh liệt và có giá trị thời đại, bởi vì đây là học thuyết
khoa học và cách mạng. Học thuyết đó là cơ sở thế giới quan, cơ sở phương pháp
luận khoa học của nhân loại và gợi mở cho sự nghiên cứu tiếp tục trong tương
lai của loài người. Học
thuyết Mác - Lê-nin, cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh, thực sự trở thành nền tảng
tư tưởng lý luận, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng ta trong lãnh
đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Thứ hai, là học thuyết
khoa học và đúng đắn, nhưng học thuyết Mác - Lê-nin cũng là sản phẩm của thời
đại, của hoàn cảnh lịch sử nhất định, nên không thể đưa ra những giải đáp đầy
đủ, chi tiết, cặn kẽ mọi vấn đề, ở mọi thời đại, của mọi quốc gia. Do vậy, cần
phải xem học thuyết Mác - Lê-nin là học thuyết mở, phải được bổ sung, phát
triển không ngừng cùng với tiến trình phát triển tri thức, khoa học, thực tiễn
của nhân loại. Khi vận dụng các nguyên lý cơ bản của học thuyết đó, nhất thiết
phải dựa vào điều kiện lịch sử - cụ thể của từng nước để vận dụng một cách sáng
tạo. Những thắng lợi mang tính lịch sử của cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng
Cộng sản lãnh đạo là minh chứng thuyết phục nhất về sự vận dụng sáng tạo và sự
đóng góp cho phát triển học thuyết Mác - Lê-nin của Đảng ta, của nhân dân ta.
Thứ ba, vận dụng lý luận vào
thực tiễn là con đường cam go, khúc khuỷu, phải có cơ chế thích hợp và đòi hỏi
thái độ khách quan, khoa học, trung thực thì mới thành công.
Những kết luận rút ra
trên đây cũng hoàn toàn đúng với việc nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng
tạo Chủ nghĩa Mác - Lê-nin ở Việt Nam chúng ta.
Ở Việt Nam, kể
từ “Đường kách mệnh” do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo và Luận
cương chính trị do Hội nghị Trung ương tháng 10-1930 thông qua cho đến nay,
Đảng ta đều khẳng định chủ nghĩa Mác - Lê-nin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động cách mạng của Đảng. Từ Đại hội VII đến nay có sự bổ sung mới: “Đảng
lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng của
Đảng...”. Ngay từ năm 1991, Đại hội VII đã khẳng định: “...tư tưởng Hồ Chí
Minh chính là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong điều
kiện cụ thể của nước ta, và trong thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một
tài sản tinh thần quý báu của Đảng và của cả dân tộc; Đảng Cộng sản Việt Nam là
sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân
trọn vẹn nhất cho sự kết hợp đó, là tiêu biểu sáng ngời cho sự kết hợp giai cấp
và dân tộc, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội”(9).
Bước vào thế kỷ XXI,
sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, xu thế toàn cầu hóa với
xung lực là kinh tế tri thức đang tiến với tốc độ “một ngày bằng cả trăm năm”
đã và đang đặt ra trước toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta những trọng trách
mới, ngày càng to lớn, phức tạp và khó khăn hơn. Nói cách khác, khi lịch sử thế
giới bước vào thời kỳ phát triển mạnh mẽ, hơn bao giờ hết, hàng loạt vấn đề vừa
có ý nghĩa chiến lược, vừa cơ bản, vừa cấp bách đặt ra mệnh hệ tới tương lai
của dân tộc đang đòi hỏi Đảng ta phải tìm câu trả lời cấp bách, trong lúc những
vấn đề mới mẻ và khó khăn ấy, mà sinh thời các nhà kinh điển không và không thể
để lại một lời chỉ dẫn nào cụ thể cả.
Cố nhiên, như trên đã
trình bày, chúng ta không thể phủ nhận một điều là, những thập niên 70, 80,
nhất là đầu những năm 90 của thế kỷ XX, trong quá trình hiện thực hóa lý luận
mác-xít đó, những người cộng sản gặp phải khó khăn to lớn. Đặc biệt, khi lịch
sử phát triển nhân loại ở vào tình thế có tính bước ngoặt, khi xu thế toàn cầu
hóa trở thành phổ biến với những xung lực mạnh mẽ, công việc đó càng trở nên
khó khăn gấp bội. Giai cấp công nhân mà đứng đầu là đảng cách mạng của nó đã,
đang và tiếp tục đủ sức gánh vác trọng trách đó của lịch sử XHCN, khi biết dựa
vào sự chỉ dẫn của lịch sử phong trào XHCN, biết cách vượt lên
những thách thức “mất, còn” của thời đại và điều cơ bản, có ý
nghĩa quyết định nhất là phải biết trở về với chủ nghĩa Mác - Lê-nin một cách
kiên định và sáng tạo.
Do đó, trong công cuộc
xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, chúng ta càng phải trở về với chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách trung thành và sáng
tạo. Nguyên tắc bất di bất dịch là, cần nghiên cứu và thấu triệt nó
với tư cách không chỉ là nền tảng lý luận chính trị về phương
diện chính trị - xã hội, một cương lĩnh chính trị - khoa học về
mặt hành động cách mạng, một chỉnh thể toàn vẹn về mặt cấu
trúc hệ thống, một thực thể vận động và thống nhất trên bình
diện khoa học - thực tiễn mà còn là một lý thuyết - thực tiễn mở về
phương diện xã hội - lịch sử và là một tổng thể phương pháp luận khoa
học và cách mạng, như chính bản thân học thuyết Mác - Lê-nin chứa đựng và thể
hiện.
Qua thử thách và sự
kiểm nghiệm của thực tiễn lịch sử, điều ngày càng sáng tỏ là, do sự kết tinh
những tư cách và phẩm chất đó, chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tự nó đã là một khoa
học mang tính cách mạng sâu sắc. Vì, nó là học thuyết không chỉ nhằm giải
thích thế giới mà quan trọng hơn là, nhằm cải tạo thế
giới. Nói cách khác, chủ nghĩa Mác - Lê-nin tuyệt đối không phải là thứ khoa
học tự thân mà là khoa học về cách mạng, khoa học của thực tiễn và vì thực tiễn
lịch sử cách mạng nhằm tới mục tiêu giải phóng con người khỏi sự chế ngự bởi
“vương quốc tất yếu”, để bước tới “vương quốc tự do”. Vì thế, tự nó hàm chứa
khả năng tự phát triển, tự sáng tạo không ngừng, thông qua cách mạng. Nói kiên
định với chủ nghĩa Mác - Lê-nin cũng chính là phải không ngừng phát triển nó
bằng thực tiễn cách mạng sáng tạo; đồng thời, tỉnh táo chống lại một cách kịp
thời và hiệu quả mọi biểu hiện của chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cơ hội và chủ
nghĩa xét lại làm vấy bẩn, méo mó và xuyên tạc nó.
Do đó, việc tiếp tục
nghiên cứu, phát triển học thuyết Mác - Lê-nin thực chất là nghiên cứu,
phát hiện và tổng kết những vấn đề mang tính quy luật, những quy luật của sự
vận động xã hội một cách tổng quát, có tính chất chung nhất, mang tính tất yếu
nhưng lại được hàm chứa và được thể hiện sinh động ở những thời kỳ lịch sử cụ
thể, nhất định, xét trong toàn bộ tiến trình phát triển lịch sử - tự nhiên của
nhân loại, vì sự sống còn và phát triển của CNXH trong thế kỷ XXI.
Theo đó, thực chất của
toàn bộ việc nghiên cứu lý luận chính trị của chúng ta là nhằm mục tiêu
góp phần xác lập một đường lối chính trị độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo
dẫn dắt, chỉ đạo thắng lợi công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, dưới sự
lãnh đạo của Đảng ở nước ta hiện nay trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng trên bình diện thực tiễn, không phải cứ nói
tới định hướng XHCN trong công tác nghiên cứu lý luận chính trị là khắc có lý
luận đúng đắn về sự nghiệp xây dựng CNXH, cụ thể hơn là đường lối chính trị xây
dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc đúng đắn. Bởi lẽ, một mặt, về
phương pháp luận, có định hướng tất có chệch hướng, xét cả trên bình diện vĩ mô
lẫn mức vi mô, cả ở quy mô mang tính toàn cục lẫn bộ phận; mặt khác,
về tổ chức thực tiễn, tự nó đã chứa đựng sự bất cập kép: hoạch định đường lối
chính trị sai quy luật và tổ chức thực thi đường lối chính trị một cách lệch
lạc. Trong quá khứ, những sai lầm về thực tiễn đã chứng tỏ cả hai điều này. Bởi
vậy, ngay tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994), Đảng ta
đã cảnh báo và đặc biệt lo lắng về nguy cơ chệch hướng XHCN, coi đây là nguy
cơ đứng hàng thứ nhất trong bốn nguy cơ, trên cả hai bình diện hoạch
định đường lối và tổ chức thực tiễn đường lối chính trị của Đảng.
Nói như vậy để phải ý
thức sâu sắc rằng, vấn đề giữ vững định hướng XHCN trong nghiên cứu lý
luận chính trị trên nền tảng học thuyết Mác - Lê-nin có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, quyết định sự thành bại của Đảng ta, của sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo
vệ Tổ quốc của chúng ta hiện nay và của dân tộc, của đất nước trong tương lai. Đó
là bài học thành hay bại của chúng ta trong thực tiễn xây dựng CNXH mấy thập
niên vừa qua; cũng là bài học thất bại của các đảng cộng sản cầm quyền tại các
nước XHCN ở Liên Xô và Đông Âu trong thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, khi
chệch hướng hay lạc hướng về mặt kiến tạo đường lối chính trị, rộng hơn là lý
luận chính trị. Chính từ sự phát triển phức tạp và khó khăn của thực tiễn cách
mạng cho thấy, không gì có thể thực tiễn hơn, khi chúng ta có một lý
luận khoa học và cách mạng dẫn đường. Ở đâu và lúc nào công tác lý
luận không được coi trọng đúng mức thì ở đó và lúc đó xảy ra tình trạng khủng
hoảng lý luận và lý luận tụt hậu; theo đó, công tác tổ chức thực tiễn sẽ hết
sức chệch choạc, thậm chí gặp khó khăn và đổ vỡ. Thực tiễn xác nhận, chỉ
có xuất phát từ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tổ chức
tốt thực tiễn, kịp thời và thường xuyên tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách
mạng là con đường duy nhất đúng để phát triển và bảo vệ lý luận cách mạng mới
tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng không ngừng tiến lên.
Đó chính là mục
đích, con đường, môi trường, là bước đi, thước đo hiệu quả, là thách thức, vận
hội phát triển và là chân trời của sự sáng tạo của công tác lý luận
hiện nay nhằm xây dựng và phát triển nền tảng tư tưởng chính trị dẫn dắt sự
nghiệp đổi mới xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam đi tới tương lai; đồng
thời, xác nhận thái độ, bản lĩnh, năng lực và đạo lý của chúng
ta đối với học thuyết mác-xít.
Bởi, xét cho cùng,
toàn bộ công tác lý luận của chúng ta, về thực chất, là nhằm tới mục
đích xây dựng một đường lối chính trị độc lập, tự chủ và sáng tạo về lý luận
của Đảng để chỉ đạo thắng lợi công cuộc xây dựng CNXH trên đất nước ta, theo
chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Lịch sử Đảng ta hơn 84 năm qua
xác nhận: do kiên định và vận dụng linh hoạt, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó tìm đúng bản chất, quy luật vận động đặc thù của xã
hội Việt Nam và xu thế vận động tất yếu của thời đại; đồng
thời, đấu tranh một cách kiên quyết chống mọi biểu hiện của
chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa cơ hội..., Đảng ta đã xây
dựng thành công một đường lối cách mạng độc lập, tự chủ và sáng tạo của cách
mạng nước ta. Ở tầm vĩ mô, công tác lý luận đã góp phần quan trọng trong việc
kiến giải hàng loạt vấn đề khoa học - thực tiễn rất cơ bản và quan trọng, tiếp
tục đưa đất nước vượt qua những khó khăn, thử thách tiếp tục phát triển trên
con đường XHCN, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đó là những vấn đề về đặc điểm và nội dung của thời đại ngày nay; về mô hình và
con đường XHCN ở Việt Nam; về sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; về phát
triển kinh tế thị trường định hướng XHCN; về chủ động, tích cực hội nhập quốc
tế; về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; về phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế; về xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam; về xây dựng Đảng ngang tầm sự nghiệp đổi mới đất
nước,... Tất cả sự nỗ lực đó của công tác lý luận đã trực tiếp góp phần làm
cho “con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn”,
đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng kéo dài
suốt hai thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, bước vào thời kỳ phát triển mới ở
thế kỷ XXI với thế và lực mới, với một gia tốc mới, như bất cứ ai đều
thấy.
Đó chính là một trong
những bài học lịch sử vô giá làm nên thắng lợi của cách mạng
Việt Nam, góp phần vào sự phát triển sáng tạo và bảo vệ thành
công chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trên cơ sở bảo
đảm sự thống nhất giữa lý luận cách mạng và thực tiễn cách mạng nhằm
vừa nâng cao trình độ lý luận, vừa đẩy mạnh năng lực tổ chức thực tiễn cách
mạng./.
-----------------------------------
(1) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 23, tr. 50
(1) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 23, tr. 50
(2) Hồ Chí Minh: Toàn
tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t. 10, tr. 128
(3) Đánh giá của Đại
hội Mác quốc tế họp ở Pa-ri từ ngày 27 đến 30-9-1995 nhân kỷ niệm 100 năm chủ
nghĩa Mác với 500 đại biểu của gần 100 viện nghiên cứu, tạp chí mác-xít và 30 trường
đại học từ 22 nước trên thế giới (xem: Tạp chí Cộng sản, số 9,
5-1996)
(4) Đánh giá của Tuần
báo Giải phóng, ngày 7-7-1995, tiếng nói của hàng vạn chiến sĩ
cách mạng các nước Mỹ La-tinh, cư trú ở Thụy Điển (xem: Tạp chí Cộng
sản, số 1, 1-1996)
(5), (6) V.I.
Lê-nin: Sđd, t. 6, tr. 30, 32
(7) Hồ Chí Minh: Sđd,
t. 2, tr. 267 - 268
(8) Hồ Chí Minh: Sđd,
t. 12, tr. 92
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự
thật, Hà Nội, 1991, tr. 127 - 128