TUYÊN BỐ CHUNG VIỆT NAM
– TRUNG QUỐC (1999-NAY)
Mục lục:
Việt Nam - Trung Quốc ra Tuyên bố chung 2011
---------------
Nội dung của Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ (2004)
Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (1999)
QUY HOẠCH
TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP, THƯƠNG MẠI TUYẾN BIÊN GIỚI VIỆT - TRUNG ĐẾN
NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
Nguồn: Web theo Luật pháp Việt Nam
Hôm nay (15/10), tại Hà Nội,
Việt Nam và Trung Quốc đã ra Tuyên bố chung về chuyến thăm chính thức Việt Nam
của Thủ tướng Quốc vụ viện nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Lý Khắc
Cường.
Hà Nội, ngày 15 tháng
10 năm 2013
1. Nhận lời mời của Thủ tướng
Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Tấn
Dũng, Thủ tướng Quốc vụ viện nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Lý Khắc
Cường đã thăm chính thức nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ ngày 13 đến
ngày 15 tháng 10 năm 2013.
Trong thời gian chuyến thăm,
Thủ tướng Lý Khắc Cường đã hội đàm với Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng; hội kiến với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang,
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng.
Trong không khí chân thành, hữu nghị
và hiểu biết lẫn nhau, hai bên đã đi sâu trao đổi ý kiến và đạt nhận thức chung
rộng rãi về việc làm sâu sắc thêm hợp tác chiến lược toàn diện Việt-Trung trong
tình hình mới, cũng như tình hình quốc tế, khu vực hiện nay và các vấn đề cùng
quan tâm.
2. Hai bên đã nhìn lại
và đánh giá cao sự phát triển quan hệ Việt Nam-Trung Quốc,
khẳng định sẽ tuân theo những nhận thức chung quan trọng mà Lãnh đạo cấp
cao hai nước đã đạt được, phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn
diện Việt Nam-Trung Quốc theo phương châm “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài,
hướng tới tương lai” và tinh thần “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt,
đối tác tốt”.
Hai bên nhất trí cho rằng, trong tình
hình kinh tế, chính trị quốc tế diễn biến phức tạp hiện nay, việc hai bên tăng
cường trao đổi chiến lược, làm sâu sắc thêm hợp tác thực chất, xử lý thỏa đáng
các vấn đề còn tồn tại, tăng cường điều phối và phối hợp trong các vấn đề quốc
tế và khu vực, thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển lành mạnh, ổn định lâu dài
phù hợp lợi ích căn bản của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước, có lợi cho
hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực cũng như thế giới.
3. Hai bên đánh giá cao vai
trò quan trọng không thể thay thế của tiếp xúc cấp cao giữa hai
nước, nhất trí tiếp tục duy trì tiếp xúc và thăm viếng cấp cao,
xuất phát từ tầm cao chiến lược nắm vững phương hướng phát triển quan hệ hai
nước trong thời kỳ mới.
Đồng thời, thúc đẩy trao đổi cấp cao
qua nhiều hình thức như gặp gỡ bên lề các diễn đàn đa phương, sử dụng tốt đường
dây nóng giữa Lãnh đạo cấp cao để đi sâu trao đổi các vấn đề trọng đại trong
quan hệ song phương cũng như các vấn đề cùng quan tâm.
4. Hai bên nhất trí tiếp tục
sử dụng tốt cơ chế của Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song
phương Việt Nam-Trung Quốc, thúc đẩy tổng thể hợp tác cùng
có lợi trên các lĩnh vực; thực hiện tốt “Chương trình hành động triển khai Quan
hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc”; sử
dụng tốt các cơ chế giao lưu, hợp tác giữa các ngành Ngoại giao, Quốc phòng,
Kinh tế, Thương mại, Công an, An ninh, Báo chí hai nước và giữa Ban Đối ngoại
Trung ương, Ban Tuyên giáo của hai Đảng; tổ chức tốt Phiên họp Ủy ban chỉ đạo
hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc, Hội nghị hợp tác phòng chống tội phạm,
Phiên họp Ủy ban hợp tác kinh tế thương mại, Hội thảo lý luận giữa hai Đảng; làm tốt các công
tác như Tham vấn Ngoại giao thường niên, Tham vấn An ninh-Quốc phòng, đào tạo
mở rộng cho cán bộ Đảng và Nhà nước; sử dụng hiệu quả đường dây điện thoại trực
tiếp giữa Bộ Quốc phòng, tăng cường định hướng đúng đắn báo chí và dư luận...
góp phần quan trọng cho việc tăng cường sự tin cậy giữa hai bên, duy trì phát
triển ổn định quan hệ hai nước.
5. Hai bên cho rằng, Việt Nam
và Trung Quốc là láng giềng và đối tác quan trọng của nhau, đều
đang ở trong thời kỳ then chốt của công cuộc phát triển kinh tế-xã hội, xuất
phát từ nhu cầu và lợi ích chung của hai nước, trên cơ sở bình đẳng, cùng có
lợi, hai bên nhất trí làm sâu sắc thêm hợp tác chiến lược toàn diện với trọng
tâm là các lĩnh vực dưới đây:
a. Về hợp tác trên bộ:
(i) Hai bên nhất trí nhanh chóng
thực hiện “Quy hoạch
phát triển 5 năm hợp tác kinh tế thương mại Việt-Trung giai đoạn 2012-2016”
và Danh mục các dự án hợp tác trọng điểm; thành lập Nhóm công tác hợp tác về cơ
sở hạ tầng giữa hai nước để quy hoạch và chỉ đạo thực hiện các dự án cụ thể;
sớm đạt nhất trí về phương án thực hiện và huy động vốn đối với dự án đường bộ
cao tốc Lạng Sơn-Hà Nội nhằm sớm khởi công xây dựng.
Hai bên sẽ tích cực thúc đẩy dự án
đường bộ cao tốc Móng Cái-Hạ Long, phía Trung Quốc ủng hộ các doanh nghiệp có
thực lực của Trung Quốc tham gia dự án này theo nguyên tắc thị trường, đồng
thời sẵn sàng hỗ trợ về huy động vốn trong khả năng. Các bộ, ngành hữu quan hai
nước đẩy nhanh công tác, sớm khởi động nghiên cứu khả thi dự án đường sắt Lào
Cai-Hà Nội-Hải Phòng.
Hai bên nhất trí thực hiện tốt “Bản ghi nhớ về việc xây dựng
các khu hợp tác kinh tế qua biên giới”, tích cực nghiên cứu đàm phán ký
kết “Hiệp định thương mại
biên giới Việt-Trung” (sửa đổi) nhằm phát huy vai trò tích cực thúc đẩy
hợp tác và phồn vinh ở khu vực biên giới hai nước.
(ii) Hai bên đồng ý tăng
cường điều phối chính sách kinh tế thương mại, thực hiện tốt “Bản ghi nhớ hợp tác song phương
trong lĩnh vực thương mại hàng nông sản” và “Hiệp định về việc mở Cơ quan xúc
tiến Thương mại nước này tại nước kia”, để thúc đẩy cân bằng thương mại
song phương trên cơ sở bảo đảm thương mại tăng trưởng ổn định, phấn đấu hoàn
thành trước thời hạn mục tiêu đến năm 2015 kim ngạch thương mại hai chiều đạt
60 tỷ USD.
Phía Trung Quốc khuyến khích doanh
nghiệp Trung Quốc mở rộng nhập khẩu hàng hóa có tính cạnh tranh của Việt Nam,
ủng hộ doanh nghiệp Trung Quốc vào Việt Nam đầu tư kinh doanh, đồng thời sẵn
sàng tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho doanh nghiệp Việt Nam sang Trung Quốc
mở rộng thị trường.
Phía Việt Nam sẽ tạo thuận lợi, hỗ
trợ sớm hoàn thành Khu
công nghiệp Long Giang và Khu công nghiệp An Dương. Hai bên sẽ đẩy nhanh
thi công, thúc đẩy sớm hoàn thành dự án Cung Hữu nghị Việt-Trung.
(iii) Hai bên nhất trí làm sâu sắc
thêm giao lưu hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp, khoa học công nghệ, giáo dục,
văn hóa, thể thao, du lịch, y tế…
(iv) Hai bên nhất trí tiếp tục
phát huy vai trò của Ủy ban liên hợp biên giới trên đất liền
giữa hai nước, thực hiện nghiêm túc Kế hoạch công tác hằng năm; tiến
hành Hội nghị lần thứ nhất Ủy ban hợp tác quản lý cửa khẩu giữa hai nước, thúc
đẩy công tác mở cửa, nâng cấp một số cặp cửa khẩu biên giới trên bộ, sớm chính
thức mở cặp cửa khẩu quốc gia Hoành Mô-Động Trung; thúc đẩy đàm phán về “Hiệp định hợp tác bảo vệ và
khai thác nguồn tài nguyên du lịch khu vực thác Bản Giốc” sớm đạt được
tiến triển thực chất, sớm khởi động vòng đàm phán mới và đạt nhất trí về “Hiệp định tàu thuyền tự do đi
lại tại khu vực cửa sông Bắc Luân”, sớm hoàn thành xây dựng các cầu qua
biên giới như cầu đường bộ Bắc Luân 2, cầu đường bộ 2 Tà Lùng-Thủy Khẩu, tạo
nền tảng cho sự ổn định và phát triển của khu vực biên giới hai nước.
Hai bên nhất trí tăng cường hơn
nữa hợp tác giữa các địa phương, nhất là giữa các tỉnh, khu
tự trị biên giới hai nước; phát huy vai trò của
cơ chế hợp tác liên quan giữa địa phương hai nước.
b. Về hợp tác tiền tệ:
Hai bên nhất trí tăng cường hợp
tác trong lĩnh vực tài chính, tích cực tạo điều kiện và khuyến khích
các tổ chức tài chính hai bên hỗ trợ dịch vụ tài chính cho
các dự án hợp tác song phương về thương mại và đầu tư. Trên cơ sở Hiệp
định thanh toán bằng đồng
bản tệ song phương trong thương mại biên giới ký giữa ngân hàng Trung
ương hai nước năm 2003, tiếp tục nghiên cứu việc mở rộng phạm vi thanh toán
bằng đồng bản tệ, thúc đẩy trao đổi thương mại và đầu tư hai bên.
Hai bên quyết định thành lập Nhóm
công tác về hợp tác tiền tệ giữa hai nước, để nâng cao khả năng phòng ngừa rủi
ro tài chính tiền tệ của hai bên, duy trì ổn định và phát triển kinh tế hai
nước và khu vực. Tăng cường điều phối và phối hợp đa phương, cùng nhau thúc đẩy
hợp tác tài chính tiền tệ khu vực Đông Á.
c. Về hợp tác trên biển:
Hai bên nhất
trí tuân thủ nhận thức chung của Lãnh đạo cấp cao hai Đảng,
hai nước, nghiêm túc thực hiện “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải
quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc”, sử dụng tốt cơ
chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam-Trung Quốc, kiên trì
thông qua hiệp thương và đàm phán hữu nghị, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu
dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, tích cực nghiên cứu giải pháp mang
tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên bao gồm
tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển. Theo tinh
thần đó, hai bên đồng ý thành lập Nhóm công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát
triển trên biển trong khuôn khổ Đoàn đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh
thổ Việt Nam-Trung Quốc.
Hai bên nhất trí tăng cường
chỉ đạo đối với các cơ chế đàm phán và tham vấn hiện có,
gia tăng cường độ làm việc của Nhóm công tác vùng biển ngoài cửa vịnh
Bắc Bộ và Nhóm công tác cấp chuyên viên về hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển.
Trên nguyên tắc dễ trước
khó sau, tuần tự tiệm tiến, vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển
ngoài cửa vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực thúc đẩy hợp tác cùng phát
triển tại vùng biển này và trong năm nay khởi động khảo sát chung ở khu vực
ngoài cửa vịnh Bắc Bộ để thực hiện nhiệm vụ đàm phán của Nhóm công tác về vùng
biển ngoài cửa vịnh Bắc Bộ. Nhanh chóng thực hiện các Dự án hợp tác trong các
lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển như hợp tác nghiên cứu quản lý môi trường biển
và hải đảo vùng vịnh Bắc Bộ; nghiên
cứu so sánh trầm tích thời kỳ Holocenne khu vực châu thổ sông Hồng và châu thổ
sông Trường Giang…, tiếp tục thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực bảo vệ
môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm cứu nạn trên biển, phòng
chống thiên tai và kết nối giao thông trên biển.
Hai bên nhất trí kiểm soát tốt
những bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp, mở rộng
tranh chấp, sử dụng tốt đường dây nóng quản lý, kiểm soát tranh
chấp trên biển giữa Bộ Ngoại giao hai nước, đường dây nóng về các vụ việc phát
sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển giữa Bộ Nông nghiệp hai nước, xử
lý kịp thời, thỏa đáng các vấn đề nảy sinh, đồng thời tiếp tục tích cực trao
đổi và tìm kiếm các biện pháp có hiệu quả để kiểm soát tranh chấp, duy trì đại cục quan
hệ Việt-Trung và hòa bình, ổn định trên Biển Đông.
6. Hai bên nhất trí tổ chức
tốt các hoạt động như Liên hoan Thanh niên Việt-Trung lần thứ hai; Gặp gỡ hữu nghị thanh niên
Việt-Trung; Liên hoan nhân dân Việt-Trung… nhằm bồi dưỡng ngày càng
nhiều thế hệ tiếp nối sự nghiệp hữu nghị Việt Nam-Trung Quốc. Hai bên nhất trí
thành lập Viện Khổng Tử
tại Việt Nam và đẩy nhanh việc thành lập Trung tâm văn hóa của nước này ở nước
kia, thiết thực tăng cường tuyên truyền về quan hệ hữu nghị Việt-Trung, làm sâu
sắc sự hiểu biết và hữu nghị giữa người dân hai nước.
7. Phía Việt Nam khẳng định kiên
trì thực hiện chính sách một nước Trung Quốc, ủng hộ quan
hệ hai bờ eo biển Đài Loan phát triển hòa bình và sự nghiệp lớn
thống nhất Trung Quốc, kiên quyết phản đối hành động chia rẽ “Đài Loan độc lập”
dưới mọi hình thức. Việt Nam không phát triển bất cứ quan hệ chính thức nào với
Đài Loan. Phía Trung Quốc hoan nghênh lập trường trên của Việt Nam.
8. Hai bên nhất trí tăng cường
điều phối và phối hợp tại các diễn đàn đa phương như Liên Hợp Quốc, Tổ
chức Thương mại thế giới, Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương, Diễn
đàn Hợp tác Á-Âu, Diễn đàn khu vực ASEAN, Hội nghị Cấp cao ASEAN-Trung Quốc,
Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 với Trung-Nhật-Hàn, Hội nghị Cấp cao Đông Á… cùng nhau
nỗ lực duy trì hòa bình, ổn định và thịnh vượng của thế giới.
Hai bên đánh giá cao những
thành tựu to lớn đạt được trong phát triển quan hệ ASEAN-Trung Quốc,
nhất trí lấy dịp kỷ niệm 10 năm thiết lập quan hệ đối tác chiến lược
ASEAN-Trung Quốc làm cơ hội tăng cường hơn nữa tin cậy chiến lược. Phía Việt
Nam hoan nghênh đề xuất của Trung Quốc về việc ký kết “Điều ước hợp tác láng
giềng hữu nghị giữa các nước ASEAN và Trung Quốc”, nâng cấp Khu mậu dịch tự do
ASEAN-Trung Quốc, thành lập Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á. Việc ASEAN
và Trung Quốc triển khai hợp tác rộng rãi có vai trò hết sức quan trọng đối với
thúc đẩy hòa bình, ổn định, tôn trọng và tin cậy lẫn nhau tại khu vực Đông Nam
Á.
Hai bên nhất trí thực hiện đầy đủ, hiệu quả
“Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC), tăng cường tin cậy,
thúc đẩy hợp tác, cùng nhau duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông, theo tinh
thần và nguyên tắc của “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC),
trên cơ sở đồng thuận, nỗ lực hướng tới thông qua “Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển
Đông” (COC).
9. Trong thời gian chuyến thăm, hai
bên đã ký “Hiệp
định về việc mở Cơ quan Xúc tiến thương mại nước này tại nước kia”, “Bản ghi
nhớ về xây dựng khu hợp tác kinh tế qua biên giới”, “Bản ghi nhớ về việc thành
lập Nhóm công tác hỗn hợp hỗ trợ các dự án do doanh nghiệp Trung Quốc thực hiện
tại Việt Nam”, “Hiệp định về việc xây dựng cầu đường bộ 2 Tà Lùng-Thủy Khẩu” và
Nghị định thư kèm theo, “Dự án hợp tác nghiên cứu quản lý môi trường biển và
hải đảo vùng vịnh Bắc Bộ”, “Dự án nghiên cứu so sánh trầm tích thời kỳ
Holocenne khu vực châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Trường Giang”, “Thỏa
thuận về việc thành lập Viện Khổng Tử tại Trường Đại học Hà Nội” và một số văn
kiện hợp tác kinh tế.
10. Hai bên bày tỏ hài lòng
về kết quả chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Trung Quốc
Lý Khắc Cường, nhất trí cho rằng chuyến thăm lần này
có ý nghĩa quan trọng đối với việc thúc đẩy quan hệ hai nước phát
triển và hợp tác thiết thực trên các lĩnh vực.
Việt Nam - Trung Quốc ra Tuyên bố chung 2011
Hôm nay 15/10, tại thủ đô Bắc Kinh, Việt Nam và Trung Quốc đã ra Tuyên bố chung về chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam.
1. Nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa Hồ Cẩm Đào, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam Nguyễn Phú Trọng đã thăm chính thức nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ
ngày 11 đến ngày 15 tháng 10 năm 2011.
Trong thời gian chuyến thăm, Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng đã hội đàm với Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Ðào; lần
lượt hội kiến với Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung
Quốc, Ủy viên trưởng Ủy ban Thường vụ Ðại hội Ðại biểu Nhân dân Toàn quốc Ngô
Bang Quốc; Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc,
Thủ tướng Quốc vụ viện Ôn Gia Bảo; Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Trung ương
Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch Ủy ban Toàn quốc Hội nghị Hiệp thương Chính
trị Nhân dân Trung Quốc Giả Khánh Lâm. Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Trung
ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Phó Chủ tịch nước Tập Cận Bình, Ủy viên Thường
vụ Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Phó Thủ tướng Quốc Vụ viện
Lý Khắc Cường cũng đã tham gia các hoạt động liên quan.
Trong bầu không khí chân thành, hữu
nghị, hai bên đã thông báo cho nhau về tình hình mỗi Đảng, mỗi nước; đi sâu
trao đổi ý kiến về việc tăng cường hơn nữa quan hệ giữa hai Đảng, hai nước
trong tình hình mới, cũng như về các vấn đề quốc tế và khu vực mà hai bên cùng
quan tâm, đạt được nhận thức chung rộng rãi. Ngoài Bắc Kinh, Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng đã thăm tỉnh Quảng Đông.
Hai bên nhất trí cho rằng, chuyến
thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã thành công tốt đẹp, thúc
đẩy mạnh mẽ quan hệ hai Đảng, hai nước phát triển ổn định, lành mạnh và đi vào
chiều sâu, đồng thời có ảnh hưởng tích cực thúc đẩy hòa bình, ổn định, hợp tác
và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
2. Hai bên vui mừng trước những thành
tựu mang tính lịch sử mà nhân dân hai nước, dưới sự lãnh đạo của hai Đảng Cộng
sản, đã đạt được trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước, trong
đổi mới của Việt Nam và cải cách mở cửa của Trung Quốc.
Phía Việt Nam nhiệt liệt chúc mừng 90
năm thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc và sự mở đầu thuận lợi trong thực hiện
Quy hoạch 5 năm lần thứ 12 của Trung Quốc; tin
tưởng vững chắc Đảng Cộng sản Trung Quốc nhất định sẽ đoàn kết chặt chẽ và dẫn
dắt nhân dân Trung Quốc thực hiện thắng lợi mục tiêu vĩ đại xây dựng toàn diện xã
hội khá giả và đẩy nhanh hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa.
Phía Trung Quốc chúc mừng thành công
của Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam và tin tưởng vững chắc rằng, nhân dân
Việt Nam nhất định sẽ thực hiện thắng lợi những mục tiêu và nhiệm vụ mà Đại hội
XI đã đề ra, xây dựng Việt Nam thành nước xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.
3. Hai bên đã nhìn lại và tổng kết
những thành tựu to lớn đã giành được trong quá trình phát triển quan hệ hai
nước 61 năm qua kể từ khi Việt Nam và Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao,
đặc biệt là 20 năm kể từ khi bình thường hóa quan hệ, và nhất trí cho rằng,
quan hệ hai nước đã phát triển nhanh và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực.
Hai bên nhấn mạnh tôn trọng lẫn nhau,
hiểu biết lẫn nhau, ủng hộ lẫn nhau, tin cậy lẫn nhau, hợp tác với nhau là kinh
nghiệm quan trọng cho quan hệ hai nước phát triển ổn định, lành mạnh; khẳng
định tình hữu nghị đời đời Việt-Trung là tài sản quý báu chung của hai Đảng,
hai nước và nhân dân hai nước, cần được không ngừng củng cố, phát triển, truyền
mãi cho các thế hệ mai sau.
Hai bên khẳng định, Việt Nam và Trung Quốc tiếp tục kiên trì
phương châm “láng giềng
hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần
“láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí
tốt, đối tác tốt,” từ tầm cao chiến lược và tầm nhìn toàn
cục, sẽ tăng cường giao lưu hữu nghị giữa hai nước, mở rộng hợp tác cùng có lợi
trên các lĩnh vực, trân trọng, giữ gìn, phát triển tốt quan hệ hai Đảng, hai
nước Việt-Trung, thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt
Nam-Trung Quốc phát triển một cách ổn định, lành mạnh, lâu dài.
Hai bên nhất trí cho rằng, trong bối
cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn biến sâu sắc, phức tạp, việc hai Đảng,
hai nước Việt Nam-Trung Quốc tăng cường hơn nữa sự tin cậy chiến lược, hợp tác
chặt chẽ toàn diện, xử lý thỏa đáng các vấn đề còn tồn tại hay mới nảy sinh
giữa hai nước, là phù hợp với lợi ích căn bản và lâu dài của hai Đảng, hai nước
và nhân dân hai nước, có lợi cho sự nghiệp chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước, có lợi
cho hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
4. Hai bên nhất trí áp dụng các biện
pháp hữu hiệu, thiết thực để mở rộng toàn diện và đi sâu hợp tác hữu nghị trên
các lĩnh vực giữa hai nước:
Một là, duy trì truyền thống tốt đẹp
các chuyến thăm và tiếp xúc giữa lãnh đạo cấp cao thông qua các hình thức linh
hoạt, đa dạng như thăm song phương, trao đổi qua đường dây nóng, gặp gỡ tại các
diễn đàn đa phương, cử đặc phái viên…, kịp thời trao đổi ý kiến về tình hình
quốc tế, khu vực và các vấn đề quan trọng trong quan hệ song phương, tăng cường
trao đổi chiến lược, nắm chắc phương hướng thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác
chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc phát triển lâu dài, lành mạnh, ổn
định. Trong thời gian chuyến thăm, hai bên chính thức khai thông đường dây nóng
giữa lãnh đạo cấp cao hai nước.
Hai là, phát huy đầy đủ vai trò quan
trọng của Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc trong việc đi
sâu hợp tác thực chất, thúc đẩy quan hệ song phương, tăng cường hơn nữa sự chỉ
đạo và quy hoạch chính sách đối với hợp tác trong các lĩnh vực, thúc đẩy tổng
thể sự hợp tác, phối hợp xử lý vấn đề phát sinh, thúc đẩy hợp tác thiết thực
trên các lĩnh vực đạt thành quả phong phú hơn nữa, không ngừng làm phong phú
nội hàm quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện hai nước.
Ba là, thắt chặt giao lưu hợp tác giữa hai
Đảng, thực hiện có hiệu quả “Kế
hoạch hợp tác giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc giai đoạn
2011-2015.”
Tổ chức tốt Hội thảo lý luận giữa hai
Đảng, tăng cường trao đổi kinh nghiệm xây dựng Đảng, quản lý đất nước; mở rộng
và đi sâu hợp tác đào tạo cán bộ Đảng, chính quyền; tổ chức các cuộc gặp gỡ cấp
Trưởng Ban theo cơ chế giao lưu, hợp tác giữa hai Ban Đối ngoại và hai Ban
Tuyên truyền hai Đảng vào thời điểm thích hợp.
Bốn là, đi sâu hợp tác giữa hai quân đội, tăng cường tiếp
xúc giữa lãnh đạo cấp cao quân đội hai nước; tiếp tục tổ chức tốt Đối thoại
Chiến lược cấp Thứ trưởng Quốc phòng; thúc đẩy thiết lập đường dây điện thoại
trực tiếp giữa hai Bộ Quốc phòng hai nước; tăng cường hợp tác đào tạo cán bộ và giao lưu sĩ
quan trẻ; triển khai thí điểm tuần tra chung biên giới đất liền vào thời
điểm thích hợp; tiếp tục tổ chức tuần tra chung giữa hải quân hai nước trong
Vịnh Bắc Bộ; tăng cường hợp tác trong các mặt như tàu hải quân hai nước thăm
nhau.
Năm là, đi sâu hơn nữa hợp tác giữa
hai nước trong lĩnh vực thi hành pháp luật và an ninh; tổ chức tốt Hội nghị cấp
Bộ trưởng Hợp tác phòng chống tội phạm lần thứ 3 giữa hai Bộ Công an hai nước; thúc đẩy triển
khai các hoạt động chung chống xuất nhập cảnh trái phép ở khu vực biên giới;
tăng cường phối hợp có hiệu quả trong các lĩnh vực phòng chống tội phạm kiểu
mới như tấn công tội phạm lừa đảo viễn thông.
Tăng cường giao lưu và hợp tác giữa
các cơ quan như tòa án,
viện kiểm sát, công an, hành chính tư pháp; cùng phòng ngừa và tấn công
các hoạt động vi phạm pháp luật, tội phạm xuyên biên giới; tăng cường phối hợp
và ủng hộ lẫn nhau trong việc giữ gìn ổn định trong nước của mình.
Sáu là, tăng cường và mở rộng hợp tác
thiết thực giữa hai nước theo các nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, chú trọng
hiệu quả thực tế, bổ sung thế mạnh lẫn nhau, bằng nhiều hình thức đa dạng, cùng
nhau phát triển:
- Phát huy đầy đủ vai trò của Ủy ban
hợp tác kinh tế-thương mại, Ủy ban liên hợp hợp tác khoa học kỹ thuật giữa
Chính phủ hai nước trong việc chỉ đạo, điều phối tổng thể, đôn đốc thực hiện
hợp tác thiết thực giữa hai nước trong các lĩnh vực liên quan. Thực hiện tốt “Quy hoạch phát triển 5 năm hợp
tác kinh tế-thương mại Việt Nam-Trung Quốc” vừa được ký kết trong chuyến
thăm này.
- Tích cực thúc đẩy hợp tác giữa hai
nước trong các lĩnh vực như thương mại, đầu tư, tài chính, ngân hàng, nông lâm
nghiệp, giao thông, điện lực, công nghệ thông tin, khoáng sản, năng lượng, du
lịch..., tăng cường trao đổi về thúc đẩy cân bằng thương mại song phương,
khuyến khích và tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp của hai nước mở rộng hợp tác
lâu dài cùng có lợi, xây dựng khu hợp tác kinh tế biên giới và hợp tác “hai
hành lang, một vành đai”...
- Tiếp tục thúc đẩy hợp tác giữa hai
nước trong các lĩnh vực như khoa học kỹ thuật, giáo dục, phát triển nguồn nhân
lực, văn hóa, y tế, thể thao, báo chí… Tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực
như bảo vệ môi trường, quản lý nguồn nước và ứng phó với biến đổi khí hậu. Thực
hiện tốt “Thỏa thuận trao đổi giáo dục 2011-2015,” mở
rộng số lượng lưu học sinh cử sang nhau.
- Tiếp tục tổ chức tốt các hoạt động
giao lưu nhân dân, như
Diễn đàn Nhân dân Việt-Trung, Gặp gỡ hữu nghị thanh niên Việt-Trung, đẩy mạnh tuyên truyền tình hữu nghị
Việt-Trung, tăng cường định hướng dư luận và quản lý báo chí, thúc đẩy tình hữu
nghị giữa nhân dân hai nước, giữ gìn đại cục quan hệ hữu nghị hai nước, làm cho
tình hữu nghị Việt-Trung được kế thừa và phát huy rạng rỡ.
- Mở rộng hơn nữa sự giao lưu, hợp
tác giữa các địa phương hai nước, nhất là các tỉnh giáp biển, giáp biên giới
của hai nước như Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng, Quảng Ninh, Điện Biên, Hà Giang,
Lai Châu của Việt Nam với Quảng Tây, Quảng Đông, Vân Nam, Hải Nam của Trung
Quốc.
- Tiếp tục thực hiện tốt các văn kiện
có liên quan đến biên giới trên đất liền Việt Nam-Trung Quốc, “Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ” và “Hiệp định hợp tác nghề
cá ở Vịnh Bắc Bộ;” tích cực tìm tòi mô hình mới trong kiểm tra liên hợp
khu vực đánh cá chung ở Vịnh Bắc Bộ; thúc đẩy thiết lập đường dây nóng liên lạc
giữa cơ quan ngư nghiệp hai nước.
- Đẩy nhanh tiến trình đàm phán, sớm
ký kết “Hiệp định tàu thuyền qua lại tự do khu vực cửa
sông Bắc Luân” và “Hiệp định hợp tác khai thác và bảo vệ tài nguyên du lịch khu
vực thác Bản Giốc,” cùng nhau duy trì ổn định và phát triển ở khu vực
biên giới.
Trong thời gian chuyến thăm, hai bên
đã ký “Kế hoạch
hợp tác giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc (2011-2015),” “Quy hoạch phát triển 5 năm hợp tác kinh tế-thương
mại giữa Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa 2012-2016,” “Thỏa thuận trao đổi giáo dục 2011-2015
giữa Bộ Giáo dục-Đào tạo nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Giáo dục
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa,” “Nghị định thư giữa Chính phủ Việt Nam và
Trung Quốc về sửa đổi Hiệp định vận tải ôtô giữa Chính phủ hai nước Việt Nam và
Trung Quốc,” “Nghị định thư giữa Chính phủ Việt Nam và Trung Quốc về thực hiện
Hiệp định vận tải ôtô giữa Chính phủ hai nước Việt Nam và Trung Quốc,” “Thỏa
thuận các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.”
5. Hai bên đã trao đổi ý kiến chân thành,
thẳng thắn về vấn đề trên biển; nhấn mạnh ý chí và quyết tâm chính trị thông
qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị để giải quyết tranh chấp, giữ gìn hòa
bình, ổn định tại Biển Đông; cho rằng điều này phù hợp với lợi ích căn bản của
hai nước và nguyện vọng chung của nhân dân hai nước, có lợi cho hòa bình, hợp
tác và phát triển tại khu vực.
Lãnh đạo hai Đảng, hai nước sẽ duy
trì trao đổi và đối thoại thường xuyên về vấn đề trên biển giữa Việt Nam và
Trung Quốc, từ tầm cao chính trị và chiến lược, kịp thời chỉ đạo xử lý và giải
quyết thỏa đáng vấn đề trên biển.
Hai bên đánh giá tích cực việc hai
nước ký kết “Thỏa thuận các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo
giải quyết các vấn đề trên biển;” cho rằng việc ký kết Thỏa thuận này có
ý nghĩa chỉ đạo quan trọng đối với việc xử lý và giải quyết thỏa đáng vấn đề
trên biển, sẽ cùng nỗ lực thực hiện nghiêm chỉnh Thỏa thuận này.
Căn cứ vào nhận thức chung đã có giữa
Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước và “Thỏa thuận các nguyên tắc cơ bản chỉ
đạo giải quyết các vấn đề trên biển,” hai bên đẩy mạnh đàm phán vấn đề trên
biển, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận
được, đồng thời tích cực trao đổi tìm kiếm giải pháp có tính quá độ, tạm thời,
không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên, bao gồm việc tích cực
nghiên cứu và trao đổi về vấn đề hợp tác cùng phát triển.
Hai bên thúc đẩy vững chắc đàm phán
phân định khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực trao đổi về vấn đề
hợp tác cùng phát triển ở khu vực này. Hai bên tích cực thúc đẩy hợp tác trong
các lĩnh vực như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm,
cứu hộ, cứu nạn trên biển, thăm dò khai thác dầu khí,
phòng chống thiên tai…
Trước khi giải quyết dứt điểm tranh
chấp trên biển, hai bên cùng giữ gìn hòa bình, ổn định trên Biển Đông, giữ thái
độ bình tĩnh và kiềm chế, không áp dụng hành động làm phức tạp hóa hoặc mở rộng
thêm tranh chấp, không để các thế lực thù địch phá hoại quan hệ hai Đảng, hai
nước, xử lý các vấn đề nảy sinh với thái độ xây dựng, không để ảnh hưởng tới
quan hệ hai Đảng, hai nước và hòa bình, ổn định ở Biển Đông.
6. Phía Việt Nam khẳng định thực hiện
nhất quán chính sách một nước Trung Quốc, ủng hộ quan
hệ hai bờ eo biển Đài Loan phát triển hòa bình và sự nghiệp lớn thống nhất
Trung Quốc, kiên quyết phản đối hành động chia rẽ “Đài Loan độc lập” dưới mọi
hình thức.
Việt Nam không phát triển bất cứ quan hệ chính thức nào với
Đài Loan. Phía Trung Quốc bày tỏ hoan nghênh lập trường trên của phía Việt Nam.
7. Hai bên khẳng định tiếp tục mở
rộng giao lưu và hợp tác giữa hai Bộ Ngoại giao hai nước, tổ chức tốt trao đổi
chính trị giữa Bộ Ngoại giao hai nước, tăng cường trao đổi và hợp tác tại các
diễn đàn đa phương khu vực và quốc tế như Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Hội nghị
cấp cao Á-Âu (ASEM), Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), ASEAN+1, ASEAN+3, Hội nghị
Cấp cao Đông Á (EAS), Hợp tác tiểu vùng Mekong mở rộng…, cùng giữ gìn và thúc
đẩy hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển và phồn vinh của khu vực và thế
giới.
8. Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng chân thành cảm ơn Tổng Bí thư Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa Hồ Cẩm Đào và Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chính phủ, nhân dân Trung
Quốc về sự đón tiếp trọng thị, nhiệt tình và hữu nghị.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trân trọng mời Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào sớm sang thăm lại Việt Nam. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào bày tỏ cảm ơn về lời mời.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trân trọng mời Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào sớm sang thăm lại Việt Nam. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào bày tỏ cảm ơn về lời mời.
HIỆP ĐỊNH VỀ QUY CHẾ QUẢN LÝ BIÊN GIỚI TRÊN ĐẤT LIỀN
VIỆT NAM – TRUNG QUỐC GIỮA CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ
CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA NHÂN DÂN TRUNG HOA
(2009)
Ký tại Bắc Kinh, ngày 18 tháng 11 năm
2009
Chuyến thăm hữu nghị chính thức
Trung Quốc và dự Hội nghị cấp cao ASEM 7 của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn
Dũng đã thành công tốt đẹp, góp phần thúc đẩy quan hệ láng giềng hữu nghị, đẩy
mạnh quan hệ đối tác hợp tác toàn diện Việt - Trung không ngừng phát triển lên
một tầm cao mới vì lợi ích căn bản của nhân dân hai nước, vì hòa bình, ổn định
và phát triển ở khu vực và trên thế giới. Ngày 25/10/2008, hai bên đã ra Tuyên
bố chung. Cổng TTĐT Chính phủ trân trọng giới thiệu toàn văn bản Tuyên bố chung
này.
Bắc Kinh, ngày 25/10/2008
1. Nhận lời mời của Thủ tướng Quốc
vụ viện nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Ôn Gia Bảo, Thủ tướng Chính phủ nước
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã thăm hữu nghị, chính thức
Trung Quốc và dự Hội nghị cấp cao ASEM 7 từ ngày 20 đến ngày 25 tháng 10 năm
2008. Trong thời gian thăm, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã hội đàm với Thủ tướng
Ôn Gia Bảo và lần lượt hội kiến với các đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Hồ
Cẩm Đào, Ủy viên trưởng Ủy ban Thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc
Ngô Bang Quốc. Ngoài Bắc Kinh, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã thăm tỉnh Hải Nam.
Trong không khí chân thành, hữu nghị
và hiểu biết lẫn nhau, lãnh đạo hai nước đã trao đổi ý kiến về quan hệ song
phương, các vấn đề quốc tế và khu vực mà hai bên cùng quan tâm, đạt được nhận
thức chung quan trọng về việc làm phong phú nội hàm mối quan hệ đối tác hợp tác
chiến lược toàn diện Việt Nam – Trung Quốc. Hai bên nhất trí cho rằng, chuyến
thăm đã thành công tốt đẹp, góp phần thúc đẩy quan hệ láng giềng hữu nghị, hợp
tác toàn diện Việt - Trung không ngừng phát triển lên một tầm cao mới vì lợi
ích căn bản của nhân dân hai nước, vì hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực
và trên thế giới.
2. Phía Việt Nam đánh giá cao thành
tựu rực rỡ mà nhân dân Trung Quốc anh em đạt được sau 30 năm cải cách mở cửa;
nhấn mạnh những thành công của Trung Quốc trong việc tổ chức Olympic và
Paralympic Bắc Kinh, phóng tàu vũ trụ có người lái “Thần Châu 7” và tổ chức Hội
nghị cấp cao ASEM 7 góp phần nâng cao thêm một bước vị thế và uy tín quốc tế
của Trung Quốc; bày tỏ tin tưởng chắc chắn nhân dân Trung Quốc sẽ đạt được
thành tựu mới to lớn hơn nữa trong công cuộc xây dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc,
thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng xã hội khá giả toàn diện.
Phía Trung Quốc đánh giá cao thành
tựu to lớn mà nhân dân Việt Nam giành được trong công cuộc đổi mới mở cửa, thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cải thiện đời sống nhân dân; chúc
mừng những thành công của Việt Nam trong hội nhập quốc tế và đảm nhiệm vai trò
Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc; bày tỏ tin tưởng
nhân dân Việt Nam sẽ thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng một nước xã hội chủ
nghĩa, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
3. Hai bên hài lòng nhận thấy, quan hệ láng
giềng hữu nghị và hợp tác Việt - Trung có bước phát triển quan trọng, sự tin
cậy lẫn nhau về chính trị giữa hai bên không ngừng được tăng cường, hợp tác
kinh tế thương mại đạt thành quả to lớn, hợp tác giao lưu giữa các bộ ngành và các
địa phương ngày một mở rộng, các vấn đề tồn tại từng bước được giải quyết ổn
thỏa. Hai bên nhất trí cho rằng, trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị
quốc tế đang diễn biến phức tạp hiện nay, việc tiếp tục mở rộng và làm sâu sắc
thêm mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt - Trung phù hợp lợi
ích căn bản của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước, có lợi cho hòa bình,
ổn định và phát triển của khu vực cũng như thế giới.
4. Hai bên đạt được nhận thức chung
quan trọng về những biện pháp triển khai quan hệ đối tác hợp tác chiến lược
toàn diện Việt Nam – Trung Quốc. Hai bên nhất trí duy trì tiếp xúc mật thiết
giữa lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước dưới các hình thức linh hoạt và đa
dạng như các chuyến thăm song phương, trao đổi qua đường dây nóng, gặp gỡ tại
các diễn đàn đa phương, kịp thời trao đổi ý kiến về những vấn đề quan trọng
trong quan hệ hai nước; phát huy hơn nữa vai trò của Ủy ban Chỉ đạo hợp tác
song phương Việt - Trung trong việc quy hoạch tổng thể và đẩy mạnh toàn diện
hợp tác giữa hai nước trên các lĩnh vực; hoàn thiện cơ chế hợp tác giữa các bộ
ngành, thực hiện tốt các thỏa thuận hợp tác giữa các ngành Ngoại giao, Quốc
phòng, Công an, An ninh …; mở rộng hợp tác thiết thực trên các lĩnh vực khoa
học công nghệ, văn hóa, giáo dục, y tế, du lịch …; tăng cường giao lưu hữu nghị
giữa thanh thiếu niên, đoàn thể quần chúng, các tổ chức dân gian hai nước; làm
tốt công tác tuyên truyền giáo dục về ý nghĩa quan trọng và nội hàm cụ thể của
quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt - Trung, để tình hữu nghị của
nhân dân hai nước mãi mãi lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hai bên
thỏa thuận sẽ cùng nhau phối hợp tổ chức các hoạt động với hình thức đa dạng
long trọng kỷ niệm 60 năm thiết lập quan hệ ngoại giao hai nước.
5. Hai bên nhất trí làm sâu sắc hơn
nữa hợp tác kinh tế mậu dịch, phấn đấu nâng kim ngạch mậu dịch hai bên đạt 25
tỷ USD vào năm 2010. Hai bên giao Ủy ban Hợp tác kinh tế thương mại Việt -
Trung: (i) đẩy mạnh thực hiện “Quy hoạch 5 năm phát triển hợp tác kinh tế mậu
dịch Việt - Trung” mà hai bên đang thảo luận để ký kết; (ii) Tạo điều kiện
thuận lợi để doanh nghiệp hai nước đầu tư tại nước kia; (iii) Sớm thành lập tổ
công tác hợp tác kinh tế thương mại để thông báo tình hình cho nhau và trao đổi
ý kiến về các công việc cụ thể trong hợp tác kinh tế thương mại, tìm các biện
pháp giải quyết những vấn đề tồn tại; (iv) Tăng cường trao đổi thông tin, phối
hợp quản lý chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại…v.v, đảm bảo các
hoạt động mậu dịch biên giới phát triển lành mạnh.
Chính phủ hai nước tăng cường chỉ đạo và hỗ
trợ về chính sách, thúc đẩy các doanh nghiệp hai nước thực hiện và chấp hành
những thỏa thuận hợp tác và hợp đồng kinh tế đã ký kết theo quy tắc thị trường
để tăng cường lòng tin trong hợp tác song phương; tiếp tục trao đổi thỏa thuận
về các dự án hợp tác lớn, khuyến khích các doanh nghiệp lớn của hai nước mở
rộng hợp tác lâu dài, cùng có lợi trong các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng,
giao thông, điện lực, xây dựng nhà ở, tư vấn thiết kế, công nghiệp hóa chất,
công nghiệp phụ trợ, đóng tàu…v.v. Hai bên nhất trí, tiếp tục thực hiện Bản ghi
nhớ về triển khai hợp tác “Hai hành lang một vành đai”, nghiên cứu nghiêm túc ý
tưởng về khu kinh tế, thương mại, du lịch xuyên biên giới, thắt chặt mối quan
hệ giữa các tỉnh biên giới hai nước.
Hai bên nhất trí tăng cường trao đổi
kinh nghiệm giữa chuyên gia kinh tế hai nước, đề xuất các kiến nghị về chính
sách ứng phó với những biến động của tình hình kinh tế quốc tế.
6. Hai bên bày tỏ hài lòng đối với
việc cơ bản hoàn thành công tác phân giới trên bộ, đồng ý tiếp tục cùng phối
hợp chặt chẽ, tích cực giải quyết vấn đề còn lại, đảm bảo thực hiện mục tiêu
kết thúc công việc phân giới cắm mốc toàn tuyến biên giới trên bộ đúng thời hạn
trong năm nay; sớm ký kết Nghị định thư phân giới cắm mốc và Hiệp định quy chế
quản lý biên giới mới nhằm xây dựng đường biên giới hòa bình, ổn định, hợp tác,
hữu nghị lâu dài giữa hai nước. Hai bên đồng ý tổ chức lễ mừng công hoàn thành
toàn bộ công tác phân giới cắm mốc tại cặp cửa khẩu mà hai bên nhất trí.
Hai bên khẳng định tiếp tục phối hợp
chặt chẽ, thực hiện tốt “Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ” và “Hiệp định hợp tác
nghề cá Vịnh Bắc Bộ”, làm tốt công tác kiểm tra liên hợp và điều tra liên hợp
nguồn lợi thủy sản trong vùng đánh cá chung và việc tuần tra chung giữa hải
quân hai nước ở Vịnh Bắc Bộ; thúc đẩy hợp tác thăm dò, khai thác cấu tạo dầu
khí vắt ngang đường phân định Vịnh Bắc Bộ đạt được những tiến triển thực chất.
Hai bên tiếp tục thúc đẩy một cách vững chắc đàm phán phân định khu vực ngoài
cửa Vịnh Bắc Bộ và tích cực trao đổi về vấn đề hợp tác cùng phát triển, sớm
khởi động khảo sát chung ở khu vực này.
Hai bên đã trao đổi ý kiến một cách
thẳng thắn và hữu nghị về việc gìn giữ hòa bình ổn định ở Biển Đông; khẳng định
tuân thủ nghiêm túc nhận thức chung giữa lãnh đạo cấp cao hai nước và tinh thần
“Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông”, duy trì cơ chế đàm phán vấn
đề trên biển, căn cứ nguyên tắc và chế độ pháp lý được xác định bởi luật pháp
quốc tế, bao gồm Công ước Luật Biển của Liên Hợp Quốc năm 1982 tìm kiếm giải
pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên có thể chấp nhận được, tích cực nghiên cứu và
bàn bạc về hợp tác cùng phát triển để tìm ra mô hình và khu vực thích hợp.
Trong quá trình đó, hai bên cùng nỗ lực gìn giữ tình hình ổn định ở Biển Đông,
không áp dụng hành động làm phức tạp hóa hoặc mở rộng thêm tranh chấp. Hai bên
đồng ý, với nguyên tắc dễ trước khó sau, tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực
như nghiên cứu khoa học hải dương, bảo vệ môi trường, dự báo khí tượng thủy
văn, thăm dò khai thác dầu khí, tìm kiếm cứu hộ trên biển, tàu hải quân đi thăm
lẫn nhau, xây dựng cơ chế trao đổi thông tin trực tiếp giữa quân đội hai nước.
7. Phía Việt Nam một lần nữa khẳng
định việc kiên định thực hiện chính sách một Trung Quốc, ủng hộ sự nghiệp thống
nhất của Trung Quốc, kiên quyết phản đối hoạt động “Đài Loan độc lập” dưới bất
kỳ hình thức nào. Việt Nam không phát triển bất cứ quan hệ chính thức nào với
Đài Loan. Phía Trung Quốc bày tỏ hoan nghênh lập trường trên của Việt Nam.
8. Hai bên trao đổi và đạt nhận thức
chung về các vấn đề quốc tế, khu vực cùng quan tâm, bày tỏ sự hài lòng về sự
phối hợp chặt chẽ trong các công việc quốc tế và khu vực như Liên Hợp Quốc,
WTO, APEC, ASEM, ASEAN+1, ASEAN+3, đồng ý tăng cường hợp tác trong lĩnh vực đa
phương, góp phần thúc đẩy xây dựng một thế giới hòa bình lâu dài và cùng phát
triển phồn vinh.
9. Trong thời gian thăm, hai bên đã
ký 8 hiệp định và thỏa thuận, trong đó có Hiệp định về thiết lập đường dây
nóng; Hiệp định về kiểm dịch y tế biên giới; Hiệp định khung về việc Trung Quốc
cung cấp cho Việt Nam khoản tín dụng; Thỏa thuận về xây dựng khu kinh tế -
thương mại Trung Quốc tại thành phố Hải Phòng; Thỏa thuận về hợp tác chiến lược
giữa Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và Công ty dầu
khí hải dương quốc gia Trung Quốc và một
số thỏa thuận hợp đồng kinh tế khác.
10. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bày tỏ
cảm ơn chân thành Tthủ tướng Ôn Gia Bảo, Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chính phủ và
nhân dân Trung Quốc về sự đón tiếp trọng thị, nhiệt tình và hữu nghị, mời Thủ
tướng Ôn Gia Bảo thăm lại Việt Nam, Thủ tướng Ôn Gia Bảo bày tỏ sự cảm ơn.
Hà Nội, ngày 17 tháng 11 năm 2006
1.
Nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Nông Đức Mạnh và Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Minh
Triết, Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch
nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa Hồ Cẩm Đào đã sang thăm hữu nghị chính thức
Việt Nam từ ngày 15 đến 17 tháng 11 năm 2006.
Trong
thời gian thăm, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào đã hội đàm với Tổng Bí
thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, hội kiến với Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng. Hai bên thông báo cho nhau
tình hình mỗi Đảng, mỗi nước; trao đổi ý kiến sâu rộng về quan hệ giữa hai
Đảng, hai nước cũng như các vấn đề quốc tế và khu vực mà hai bên cùng quan tâm
và đã đạt được nhận thức chung rộng rãi. Hai bên nhất trí cho rằng, chuyến thăm
lần này đã thành công tốt đẹp, chắc chắn sẽ thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ láng giềng
hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Trung Quốc tiếp tục phát triển.
2. Hai bên bày tỏ vui mừng trước những thành tựu có tính chất lịch sử mà hai Đảng, hai nước đã giành được trong quá trình tìm tòi con đường phát triển xã hội chủ nghĩa phù hợp với tình hình của mỗi nước. Việt Nam đánh giá cao những thành tựu vĩ đại mà Trung Quốc đã giành được trong sự nghiệp cải cách, mở cửa và xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc nhất định sẽ thực hiện được mục tiêu hùng vĩ xây dựng toàn diện xã hội khá giả và đẩy nhanh hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa.
2. Hai bên bày tỏ vui mừng trước những thành tựu có tính chất lịch sử mà hai Đảng, hai nước đã giành được trong quá trình tìm tòi con đường phát triển xã hội chủ nghĩa phù hợp với tình hình của mỗi nước. Việt Nam đánh giá cao những thành tựu vĩ đại mà Trung Quốc đã giành được trong sự nghiệp cải cách, mở cửa và xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc nhất định sẽ thực hiện được mục tiêu hùng vĩ xây dựng toàn diện xã hội khá giả và đẩy nhanh hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa.
Trung
Quốc đánh giá cao những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử mà Việt Nam đã
giành được trong công cuộc đổi mới 20 năm qua, ủng hộ các phương châm và chính
sách do Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra và tin tưởng rằng, dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam nhất định sẽ thực hiện
thắng lợi các mục tiêu và nhiệm vụ do Đại hội X của Đảng xác định, xây dựng
Việt Nam thành một nước xã hội chủ nghĩa hiện đại, dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
3. Hai bên hài lòng nhận thấy quan hệ giữa hai Đảng, hai nước không ngừng được củng cố và phát triển, nhất trí cho rằng Trung Quốc và Việt Nam có lợi ích chiến lược chung trên nhiều vấn đề quan trọng. Trong bối cảnh tình hình quốc tế đang có những diễn biến sâu sắc, việc tiếp tục tăng cường quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp tác toàn diện Việt Nam-Trung Quốc phù hợp với lợi ích căn bản của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước, có lợi cho hoà bình và phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Hai bên thoả thuận sẽ tăng cường các cuộc chuyến thăm cấp cao, đi sâu trao đổi kinh nghiệm về lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp xây dựng Đảng, quản lý Nhà nước cũng như xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát huy đầy đủ vai trò của cơ chế hợp tác giữa các ngành ngoại giao, quốc phòng, công an, an ninh…, mở rộng hợp tác thiết thực trong các lĩnh vực kinh tế thương mại, khoa học kỹ thuật, văn hoá giáo dục…, triển khai mạnh mẽ giao lưu hữu nghị giữa thanh thiếu niên hai nước, làm cho tình hữu nghị Việt Nam- Trung Quốc được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hai bên cùng nhau nỗ lực phát triển quan hệ Việt Nam-Trung Quốc "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" và mãi mãi là "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.
4. Hai bên đánh giá tích cực việc hai nước đã chính thức thành lập và tiến hành phiên họp đầu tiên của Uỷ ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt- Trung. Hai bên nhất trí cho rằng, sự kiện này có lợi cho việc tăng cường chỉ đạo vĩ mô, quy hoạch tổng thể và thúc đẩy toàn diện sự hợp tác trong tất cả các lĩnh vực giữa Việt Nam và Trung Quốc, điều phối giải quyết các vấn đề có thể nảy sinh trong quá trình hợp tác. Uỷ ban này sẽ phát huy tác dụng quan trọng góp phần bảo đảm quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa hai nước phát triển lâu dài, ổn định, lành mạnh và bền vững.
5. Hai bên hài lòng về tiến triển đã đạt được trong lĩnh vực hợp tác kinh tế - thương mại giữa hai nước. Hai bên đồng ý trên tinh thần "bổ sung ưu thế cho nhau, cùng có lợi và cùng thắng", mở rộng hơn nữa quy mô, nâng cao chất lượng và trình độ hợp tác kinh tế thương mại. Tích cực phát triển điểm tăng trưởng mới về thương mại, duy trì đà tăng trưởng nhanh chóng kim ngạch mậu dịch song phương, thực hiện mục tiêu mới là nâng kim ngạch thương mại hai chiều lên 15 tỷ USD vào năm 2010.
3. Hai bên hài lòng nhận thấy quan hệ giữa hai Đảng, hai nước không ngừng được củng cố và phát triển, nhất trí cho rằng Trung Quốc và Việt Nam có lợi ích chiến lược chung trên nhiều vấn đề quan trọng. Trong bối cảnh tình hình quốc tế đang có những diễn biến sâu sắc, việc tiếp tục tăng cường quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp tác toàn diện Việt Nam-Trung Quốc phù hợp với lợi ích căn bản của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước, có lợi cho hoà bình và phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Hai bên thoả thuận sẽ tăng cường các cuộc chuyến thăm cấp cao, đi sâu trao đổi kinh nghiệm về lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp xây dựng Đảng, quản lý Nhà nước cũng như xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát huy đầy đủ vai trò của cơ chế hợp tác giữa các ngành ngoại giao, quốc phòng, công an, an ninh…, mở rộng hợp tác thiết thực trong các lĩnh vực kinh tế thương mại, khoa học kỹ thuật, văn hoá giáo dục…, triển khai mạnh mẽ giao lưu hữu nghị giữa thanh thiếu niên hai nước, làm cho tình hữu nghị Việt Nam- Trung Quốc được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hai bên cùng nhau nỗ lực phát triển quan hệ Việt Nam-Trung Quốc "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" và mãi mãi là "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.
4. Hai bên đánh giá tích cực việc hai nước đã chính thức thành lập và tiến hành phiên họp đầu tiên của Uỷ ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt- Trung. Hai bên nhất trí cho rằng, sự kiện này có lợi cho việc tăng cường chỉ đạo vĩ mô, quy hoạch tổng thể và thúc đẩy toàn diện sự hợp tác trong tất cả các lĩnh vực giữa Việt Nam và Trung Quốc, điều phối giải quyết các vấn đề có thể nảy sinh trong quá trình hợp tác. Uỷ ban này sẽ phát huy tác dụng quan trọng góp phần bảo đảm quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa hai nước phát triển lâu dài, ổn định, lành mạnh và bền vững.
5. Hai bên hài lòng về tiến triển đã đạt được trong lĩnh vực hợp tác kinh tế - thương mại giữa hai nước. Hai bên đồng ý trên tinh thần "bổ sung ưu thế cho nhau, cùng có lợi và cùng thắng", mở rộng hơn nữa quy mô, nâng cao chất lượng và trình độ hợp tác kinh tế thương mại. Tích cực phát triển điểm tăng trưởng mới về thương mại, duy trì đà tăng trưởng nhanh chóng kim ngạch mậu dịch song phương, thực hiện mục tiêu mới là nâng kim ngạch thương mại hai chiều lên 15 tỷ USD vào năm 2010.
Từng
bước cải thiện cơ cấu mậu dịch, cố gắng thực hiện phát triển cân bằng và tăng
trưởng bền vững thương mại hai chiều. Tích cực ủng hộ và thúc đẩy doanh nghiệp
hai nước hợp tác lâu dài và cùng có lợi trong các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ
tầng, công nghiệp chế tạo, khai thác nguồn nhân lực, năng lượng, chế biến
khoáng sản và các lĩnh vực quan trọng khác. Khẩn trương bàn bạc và thực hiện
các dự án lớn như bô-xít Đắc Nông…
Đẩy nhanh
tiến trình xây dựng "Hai hành lang, một vành đai kinh tế", thúc đẩy
vững chắc, hiệu quả các dự án hợp tác cụ thể. Tăng cường hợp tác trong các thể
chế kinh tế khu vực, liên khu vực và quốc tế, thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế
toàn diện giữa ASEAN và Trung Quốc.
Trung Quốc chúc mừng Việt Nam đã gia nhập WTO và tin tưởng rằng Việt Nam sẽ tích cực đóng góp phần mình vào các hoạt động của tổ chức này sau khi trở thành thành viên chính thức.
Hai bên đã ký và nhất trí sẽ nhanh chóng triển khai thực hiện "Hiệp định về mở rộng và đi sâu hợp tác kinh tế thương mại song phương”, đề ra phương hướng tổng thể về hợp tác kinh tế thương mại giữa hai nước trong 5-10 năm tới, xác định các lĩnh vực hợp tác trọng điểm, phát huy tác dụng tích cực thúc đẩy hợp tác kinh tế thương mại giữa hai nước.
Hai bên còn ký kết Bản ghi nhớ về việc triển khai Hợp tác "hai hành lang, một vành đai kinh tế" và một số văn kiện hợp tác kinh tế khác.
6. Hai bên đánh giá tích cực những tiến triển mà hai nước đã đạt được trong việc giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ. Hai bên đồng ý phối hợp chặt chẽ hơn nữa, áp dụng các biện pháp thiết thực và hiệu quả hơn, đẩy nhanh tiến độ phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền, bảo đảm hoàn thành công tác phân giới cắm mốc trên toàn tuyến biên giới trên đất liền và ký văn bản mới về quy chế quản lý biên giới chậm nhất vào năm 2008.
Trung Quốc chúc mừng Việt Nam đã gia nhập WTO và tin tưởng rằng Việt Nam sẽ tích cực đóng góp phần mình vào các hoạt động của tổ chức này sau khi trở thành thành viên chính thức.
Hai bên đã ký và nhất trí sẽ nhanh chóng triển khai thực hiện "Hiệp định về mở rộng và đi sâu hợp tác kinh tế thương mại song phương”, đề ra phương hướng tổng thể về hợp tác kinh tế thương mại giữa hai nước trong 5-10 năm tới, xác định các lĩnh vực hợp tác trọng điểm, phát huy tác dụng tích cực thúc đẩy hợp tác kinh tế thương mại giữa hai nước.
Hai bên còn ký kết Bản ghi nhớ về việc triển khai Hợp tác "hai hành lang, một vành đai kinh tế" và một số văn kiện hợp tác kinh tế khác.
6. Hai bên đánh giá tích cực những tiến triển mà hai nước đã đạt được trong việc giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ. Hai bên đồng ý phối hợp chặt chẽ hơn nữa, áp dụng các biện pháp thiết thực và hiệu quả hơn, đẩy nhanh tiến độ phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền, bảo đảm hoàn thành công tác phân giới cắm mốc trên toàn tuyến biên giới trên đất liền và ký văn bản mới về quy chế quản lý biên giới chậm nhất vào năm 2008.
Tiếp tục
thực hiện tốt “Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ” và "Hiệp định hợp tác nghề
cá Vịnh Bắc Bộ”, triển khai tốt tuần tra chung giữa hải
quân hai nước, công tác điều tra liên hợp nguồn lợi cũng như kiểm tra liên hợp
trong Vùng đánh cá chung, tích cực hợp tác đẩy nhanh việc thực hiện Thoả thuận
khung về hợp tác dầu khí trong Vịnh Bắc
bộ, tiến hành công tác thăm dò chung các cấu tạo dầu khí vắt ngang đường phân định, giữ gìn trật tự sản
xuất nghề cá bình thường, tích cực triển khai hợp tác trong các lĩnh vực khác
như nghề cá, bảo vệ môi trường, tìm kiếm cứu nạn trên biển…
Hai bên
tiếp tục thúc đẩy một cách vững chắc đàm phán về phân định vùng biển ngoài cửa
Vịnh Bắc Bộ và tích cực trao đổi ý kiến về vấn đề hợp tác cùng phát triển ở khu
vực này. Hai bên đồng ý nghiêm chỉnh tuân thủ nhận thức chung liên quan của
lãnh đạo cấp cao hai nước, tiếp tục duy trì cơ chế đàm phán về vấn đề trên
biển, kiên trì thông qua đàm phán hoà bình tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài
mà hai bên đều chấp nhận được. Hai bên cùng nhau cố gắng giữ gìn ổn định tình
hình biển Đông, đồng thời tích cực nghiên cứu và bàn bạc vấn đề hợp tác cùng
phát triển để tìm ra mô hình và khu vực phù hợp.
7. Việt Nam khẳng định kiên trì thực hiện chính sách một nước Trung Quốc, ủng hộ sự nghiệp lớn thống nhất Trung Quốc, ủng hộ "Luật chống chia cắt đất nước”, kiên quyết phản đối hành động chia rẽ “Đài Loan độc lập” dưới mọi hình thức. Mong muốn Trung Quốc sớm thực hiện thống nhất đất nước. Việt Nam không phát triển bất kỳ quan hệ chính thức nào với Đài Loan. Phía Trung Quốc bày tỏ hoan nghênh lập trường trên của phía Việt Nam.
8. Hai bên hài lòng về hợp tác giữa hai nước trong công việc quốc tế và khu vực. Hai bên khẳng định sẽ tiếp tục tăng cường phối hợp và hợp tác trong khuôn khổ đa phương như Liên hợp quốc, APEC, ASEM, ASEAN-Trung Quốc, ASEAN+3 (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc), EAS, ARF, Tiểu vùng sông Mê-công mở rộng…, cùng nhau làm hết sức mình vì hoà bình, ổn định và phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Hai bên nhất trí cho rằng Liên hợp quốc cần góp phần nâng cao vai trò, hiệu quả trong việc đối phó với những thách thức và các mối đe doạ mới, duy trì hoà bình và an ninh quốc tế, thúc đẩy sự phát triển chung của các thành viên, phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ.
Trung Quốc bày tỏ ủng hộ Việt Nam trở thành Uỷ viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009.
9. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào cảm ơn Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và Đảng Cộng sản, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã dành cho đoàn sự đón tiếp trọng thị, nhiệt tình và hữu nghị, và trân trọng mời Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết sang thăm Trung Quốc vào thời gian thuận tiện. Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết bày tỏ cảm ơn và vui vẻ nhận lời.
7. Việt Nam khẳng định kiên trì thực hiện chính sách một nước Trung Quốc, ủng hộ sự nghiệp lớn thống nhất Trung Quốc, ủng hộ "Luật chống chia cắt đất nước”, kiên quyết phản đối hành động chia rẽ “Đài Loan độc lập” dưới mọi hình thức. Mong muốn Trung Quốc sớm thực hiện thống nhất đất nước. Việt Nam không phát triển bất kỳ quan hệ chính thức nào với Đài Loan. Phía Trung Quốc bày tỏ hoan nghênh lập trường trên của phía Việt Nam.
8. Hai bên hài lòng về hợp tác giữa hai nước trong công việc quốc tế và khu vực. Hai bên khẳng định sẽ tiếp tục tăng cường phối hợp và hợp tác trong khuôn khổ đa phương như Liên hợp quốc, APEC, ASEM, ASEAN-Trung Quốc, ASEAN+3 (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc), EAS, ARF, Tiểu vùng sông Mê-công mở rộng…, cùng nhau làm hết sức mình vì hoà bình, ổn định và phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Hai bên nhất trí cho rằng Liên hợp quốc cần góp phần nâng cao vai trò, hiệu quả trong việc đối phó với những thách thức và các mối đe doạ mới, duy trì hoà bình và an ninh quốc tế, thúc đẩy sự phát triển chung của các thành viên, phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ.
Trung Quốc bày tỏ ủng hộ Việt Nam trở thành Uỷ viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009.
9. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào cảm ơn Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và Đảng Cộng sản, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã dành cho đoàn sự đón tiếp trọng thị, nhiệt tình và hữu nghị, và trân trọng mời Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết sang thăm Trung Quốc vào thời gian thuận tiện. Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết bày tỏ cảm ơn và vui vẻ nhận lời.
Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (1999)
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (dưới đây gọi là “hai Bên ký kết”);
Nhằm giữ gìn và phát triển mối quan
hệ láng giềng hữu nghị truyền thống giữa hai nước và nhân dân hai nước Việt Nam
và Trung Quốc;
Với lòng mong muốn xây dựng đường
biên giới hòa bình, ổn định và bền vững mãi mãi giữa hai nước;
Trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, cùng tồn tại hòa bình;
Trên tinh thần thông cảm, nhân nhượng
lẫn nhau và hiệp thương hữu nghị;
Đã quyết định ký kết Hiệp ước này và
thỏa thuận các điều khoản sau:
Điều I.
Hai Bên ký kết lấy các Công ước lịch
sử về biên giới hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc làm cơ sở, căn cứ vào các
nguyên tắc luật pháp quốc tế được công nhận cũng như các thỏa thuận đạt được
trong quá trình đàm phán về vấn đề biên giới Việt – Trung, đã giải quyết một
cách công bằng, hợp lý vấn đề biên giới và xác định lại đường biên giới trên
đất liền giữa hai nước.
Điều II.
Hai Bên ký kết đồng ý hướng đi của
đường biên giới trên đất liền giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được xác định từ Tây sang Đông như sau:
Giới điểm số 1 ở điểm có độ cao 1875
của núi Khoan La San (Thập Tầng Đại Sơn), điểm này cách điểm có độ cao 1439
trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,30 km về phía Tây – Tây Bắc, cách điểm có độ
cao 1691 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 3,70 km về phía Tây – Tây Bắc, cách điểm
có độ cao 1208 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 2,00 km về phía Nam.
Từ giới điểm số 1, đường biên giới
theo đường phân thủy giữa các nhánh thượng lưu sông Nậm Mo Phí và sông Nậm Sa
Ho đổ vào lãnh thổ Việt Nam và các nhánh thượng lưu sông Chỉnh Khang đổ vào
lãnh thổ Trung Quốc, hướng chung Bắc – Đông Bắc chuyển Đông, qua các điểm có độ
cao 1089, 1275, 1486 đến điểm có độ cao 1615, sau đó tiếp tục theo đường phân
thủy kể trên, hướng chung là hướng Bắc chuyển Đông Bắc, qua điểm có độ cao 1221
đến điểm có độ cao 1264, tiếp đó theo sống núi, hướng Đông Nam đến điểm có độ
cao 1248, rồi theo sống núi nhỏ, hướng Đông Bắc đến giới điểm số 2. Giới điểm
này ở giữa sông Nậm Nạp (Tháp Nọa), cách điểm có độ cao 1369 trong lãnh thổ
Việt Nam khoảng 0,70 km về phía Tây Nam, cách điểm có độ cao 1367 trong lãnh
thổ Việt Nam khoảng 0,87 km về phía Tây Bắc, cách điểm có độ cao 1256 trong
lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,80 km về phía Đông – Đông Nam.
Từ giới điểm số 2, đường biên giới
xuôi theo sông Nậm Nạp (Tháp Nọa), hướng Bắc chuyển Đông Bắc đến hợp lưu sông
này với sông Tả Ló Phi Ma (Nam Mã), sau đó tiếp tục xuôi theo sông, hướng Bắc
đến hợp lưu của nó với sông Đà (Lý Tiên), rồi xuôi sông Đà (Lý Tiên), hướng
Đông đến hợp lưu sông này với sông Nậm Là (Tiểu Hắc), tiếp đó ngược sông Nậm Là
(Tiểu Hắc) đến giới điểm số 3. Giới điểm này ở hợp lưu sông Nậm Là (Tiểu Hắc)
với suối Nậm Na Pi, cách điểm có độ cao 978 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,87
km về phía Tây – Tây Nam, cách điểm có độ cao 620 trong lãnh thổ Trung Quốc
khoảng 0,50 km về phía Bắc – Tây Bắc, cách điểm có độ cao 1387 trong lãnh thổ
Trung Quốc khoảng 4,40 km về phía Đông – Đông Bắc.
Từ giới điểm số 3, đường biên giới
rời sông bắt vào sống núi, hướng Tây Bắc đến điểm có độ cao 1933, sau đó theo
đường phân thủy giữa các nhánh thượng lưu các suối Là Pơ, Là Si, á Hu, Nậm Sau,
Nậm Khô Ma, Nậm Hà Xi, Nậm Hà Nê, Nậm Xí Lùng, Nậm Hạ, Nậm Nghe, Nậm Dền Tháng,
Nậm Pảng đổ vào lãnh thổ Việt Nam và các nhánh thượng lưu các sông Zhe Dong, Ha
Luo Luo Ba, Da Tou Luo Ba, Mo Wu Luo Ba, Na Bang, Ge Jie, Da Luo, Nan Bu, Giao
Beng Bang, Giao Cai Ping, Nan Nan, Jin Thui đổ vào lãnh thổ Trung Quốc, hướng
chung Đông Bắc chuyển Đông Nam rồi chuyển Đông Bắc, qua các điểm có độ cao
1690, 1975, 1902, 2121, 2254, 2316, 1831, 3074, 2635, 2199, 2133, 2002, 1800
đến điểm có độ cao 1519, sau đó theo sống núi, hướng chung là hướng Đông đến
chỏm núi không tên, rồi theo sống núi nhỏ, hướng Đông đến giới điểm số 4. Giới
điểm này ở giữa suối Nậm Lé (Cách Giới), cách điểm có độ cao 1451 trong lãnh
thổ Việt Nam khoảng 2,05 km về phía Bắc – Đông Bắc, cách điểm có độ cao 845
trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 2,90 km về phía Đông Nam, cách điểm có độ cao
1318 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,62 km về phía Tây Nam.
Từ giới điểm số 4, đường biên giới
xuôi theo suôn Nậm Lé (Cách Giới), hướng chung Đông Bắc chuyển Tây Bắc đến hợp
lưu suối này với sông Nậm Na, sau đó xuôi sông Nậm Na, hướng Đông Nam chuyển
Đông đến hợp lưu sông này với sông Nậm Cúm (Đằng Điều), rồi ngược sông Nậm Cúm
(Đằng Điều), hướng chung Đông Bắc đến đầu nguồn suối Phin Ho (Đằng Điều), rồi
theo một khe nhỏ, hướng chung Đông – Đông Bắc đến giới điểm số 5. Giới điểm này
ở điểm gặp nhau giữa khe kể trên với sống núi, cách điểm có độ cao 2283 trong
lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,62 km về phía Đông – Đông Bắc, cách điểm có độ cao
2392 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,45 km về phía Nam – Đông Nam, cách điểm
có độ cao 2361 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,50 km về phía Tây.
Từ giới điểm số 5, đường biên giới
theo sống núi, hướng Nam đến điểm có độ cao 2413, sau đó theo đường phân thủy
giữa các suối Tả Pao Hồ, Thèn Thẻo Hồ, Oanh Hồ, Nậm Nùng, Nậm Lon trong lãnh
thổ Việt Nam và các sông San Cha, Tai Zang Zhai, Man Jiang, Wu Tai, Shi Dong,
Ping, Zhong Liang và Cha trong lãnh thổ Trung Quốc, hướng chung Đông Nam, qua
các điểm có độ cao 2468, 3013, 2539, 2790 đến giới điểm số 6. Giới điểm này ở
điểm có độ cao 2836, cách điểm có độ cao 2381 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng
1,40 km về phía Bắc, cách điểm có độ cao 2531 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng
3,00 km về phía Đông – Đông Bắc, cách điểm có độ cao 2510 trong lãnh thổ Trung
Quốc khoảng 3,05 km về phía Nam – Tây Nam.
Từ giới điểm số 6, đường biên giới
theo sống núi, hướng Tây Nam đến một điểm gần yên ngựa phía Đông Bắc điểm có độ
cao 2546 trong lãnh thổ Việt Nam, sau đó theo khe, hướng Đông Nam đến đầu nguồn
suối Lũng Pô (Hồng Nham), rồi xuôi theo suối Lũng Pô (Hồng Nham) và hạ lưu của
nó, hướng chung Đông Bắc đến hợp lưu suôn này với sông Hồng, từ đó đường biên
giới xuôi sông Hồng, hướng Đông Nam đến hợp lưu sông Hồng với sông Nậm Thi (Nam
Khê), tiếp đó ngược sông Nậm Thi (Nam Khê), hướng chung Đông Bắc đến hợp lưu
sông Nậm Thi (Nam Khê) với sông Bá Kết (Bá Cát), rồi ngược sông Bá Kết (Bát
Tự), hướng chung là hướng Bắc đến hợp lưu sông này với một nhánh suối không tên,
sau đó ngược nhánh suối không tên đó, hướng Bắc đến giới điểm số 7. Giới điểm
này ở giữa nhánh suối không tên nói trên, cách điểm có độ cao 614 trong lãnh
thổ Việt Nam khoảng 2,00 km về phía Tây Bắc, cách điểm có độ cao 595 trong lãnh
thổ Trung Quốc khoảng 1,20 km về phía Đông Bắc, cách điểm có độ cao 463 trong
lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,65 km về phía Đông.
Từ giới điểm số 7, đường biên giới
rời suối, hướng Đông Bắc, đến điểm có độ cao 143, sau đó hướng Đông Bắc, cắt
qua một khe rồi bắt vào sống núi, hướng Bắc, qua các điểm có độ cao 604, 710,
573, 620, 833, 939, 1201 đến điểm có độ cao 918, rồi theo đường phân thủy giữa
các nhánh sông trong lãnh thổ Việt Nam và các nhánh sông trong lãnh thổ Trung
Quốc, hướng chung Đông Bắc, qua các điểm có độ cao 1158, 1077, 997, 1407, 1399,
1370, 1344, 1281, 1371, 1423, 1599, 1528, 1552, 1372, 1523, 1303 đến điểm có độ
cao 984, sau đó theo sống núi nhỏ, hướng chung là hướng Nam đến giới điểm số 8.
Giới điểm này ở hợp lưu sông Xanh (Qua Sách) với một nhánh phía Tây của nó,
cách điểm có độ cao 1521 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 3,85 km về phía Đông,
cách điểm có độ cao 1346 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 3,82 km về phía Nam –
Tây Nam, cách điểm có độ cao 1596 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 2,27 km về
phía Tây – Tây Bắc.
Từ giới điểm số 8, đường biên giới
xuôi sông Xanh (Qua Sách), hướng chung là hướng Nam đến hợp lưu sông này với
sông Chảy, rồi ngược sông Chảy, hướng chung Đông Nam, đến giới điểm số 9. Giới
điểm này ở hợp lưu sông Chảy với sông Xiao Bai, cách điểm có độ cao 1424 trong
lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,95 km về phía Đông, cách điểm có độ cao 1031 trong
lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,00 km về phía Đông Bắc, cách điểm có độ cao 1076
trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,40 km về phía Nam.
Từ giới điểm số 9, đường biên giới
rời sông, bắt vào sống núi, rồi theo sống núi, hướng chung Đông Nam, qua điểm
có độ cao 741 đến điểm có độ cao 1326, sau đó theo đường phân thủy giữa các
nhánh của sông Chảy đổ vào lãnh thổ Việt Nam và các nhánh của sông Xiao Bai đổ
vào lãnh thổ Trung Quốc, hướng chung Đông Bắc, qua các điểm có độ cao 1681,
1541, 1716, 2002, 1964, đỉnh núi không tên (Đại Nham Động) đến điểm có độ cao
1804, từ đó, theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước đến điểm có độ cao
1623, sau đó theo đường phân thủy giữa suối Nàn Xỉn trong lãnh thổ Việt Nam và
sông Xiao Bai trong lãnh thổ Trung Quốc, hướng Đông Bắc, qua điểm có độ cao
1638 đến điểm có độ cao 1661, rồi theo khe, hướng Đông Bắc xuống giữa suối Hồ
Pả, tiếp đó xuôi suối này đến hợp lưu suối này với một nhánh khác của nó, rồi
rời suối bắt vào sống núi, rồi theo sống núi hướng Tây – Tây Bắc, qua điểm có
độ cao 1259 đến giới điểm số 10. Giới điểm này ở một sống núi, cách điểm có độ
cao 1461 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,25 km về phía Bắc – Tây Bắc, cách
điểm có độ cao 1692 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,90 km về phía Đông, cách
điểm có độ cao 1393 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 2,10 km về phía Nam.
Từ giới điểm số 10, đường biên giới
theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước đến điểm có độ cao 948, sau đó theo
sống núi, hướng Đông Bắc chuyển Đông, qua điểm có độ cao 1060 đến giới điểm số
11. Giới điểm này ở hợp lưu suối Đỏ (Nam Bắc) với một nhánh suối phía Tây Nam
của nó (Qua Giai), cách điểm có độ cao 841 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,70
km về phía Đông Bắc, cách điểm có độ cao 982 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng
1,50 km về phía Đông Nam, cách điểm có độ cao 906 trong lãnh thổ Trung Quốc
khoảng 1,15 km về phía Nam – Tây Nam.
Từ giới điểm số 11, đường biên giới
xuôi suối Đỏ (Nam Bắc) đến hợp lưu suối này với suối Nậm Cư (Nam Giang) , sau
đó ngược suối Nậm Cư (Nam Giang) đến giới điểm số 12. Giới điểm này ở hợp lưu
suối Nậm Cư (Nam Giang) với một nhánh phía Tây Bắc của nó, cách điểm có độ cao
1151 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,80 km về phía Bắc – Tây Bắc, cách điểm có
độ cao 986 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,40 km về phía Đông Nam, cách điểm
có độ cao 858 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,80 km về phía Tây.
Từ giới điểm số 12, đường biên giới
rời suối, bắt vào sống núi, rồi theo sống núi, hướng chung Đông Nam, qua điểm
có độ cao 1071 đến điểm có độ cao 1732, sau đó theo đường phân thủy giữa các
nhánh sông trong lãnh thổ Việt Nam và các nhánh sông trong lãnh thổ Trung Quốc,
hướng chung là hướng Đông chuyển Bắc rồi Đông Bắc, qua các điểm có độ cao 1729,
2071, 1655, 1705, 1423 đến giới điểm số 13. Giới điểm này ở một chỏm núi không
tên, cách điểm có độ cao 993 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,55 km về phía Tây
– Tây Bắc, cách điểm có độ cao 1044 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,15 km về
phía Bắc – Tây Bắc, cách điểm có độ cao 1060 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng
0,70 km về phía Đông Nam.
Từ giới điểm số 13, đường biên giới
tiếp tục theo đường phân thủy nói trên, hướng Đông đến điểm cách điểm có độ cao
1422 khoảng 70 m về phía Tây Nam, sau đó theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm
Hiệp ước đi đến một điểm nằm trên đường phân thủy và cách điểm có độ cao 1422
khoảng 90 m về phía Bắc – Đông Bắc khu vực có diện tích 7700 m2 giữa đường đỏ
nêu trên và đường phân thủy thuộc Trung Quốc), từ đây đường biên giới tiếp tục
theo đường phân thủy nói trên, hướng chung là hướng Đông, qua các điểm có độ
cao 1397, 1219, 657, 663 đến một chỏm núi không tên phía Đông Nam điểm có độ
cao này, sau đó theo khe, hướng Bắc đến suối Nà La, rồi xuôi theo suối này
hướng Đông Bắc đến giới điểm số 14. Giới điểm này ở hợp lưu suối Nà La với sông
Lô (Pan Long), cách điểm có độ cao 922 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 3,20 km
về phía Tây – Tây Bắc, cách điểm có độ cao 183 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng
0,50 km về phía Bắc – Đông Bắc, cách điểm có độ cao 187 trong lãnh thổ Trung
Quốc khoảng 0,65 km về phía Đông.
Từ giới điểm số 14, đường biên giới
theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước qua điểm có độ cao 428 đến yên ngựa
giữa điểm có độ cao 1169 trong lãnh thổ Việt Nam và điểm có độ cao 1175 trong lãnh
thổ Trung Quốc, sau đó theo sống núi, hướng chung là hướng Bắc chuyển Tây Bắc,
qua các điểm có độ cao 1095, 1115, 1022, 1019, 1094, 1182, 1192, 1307, 1305,
1379 đến điểm có độ cao 1397, rồi tiếp tục theo sống núi, hướng chung là hướng
Bắc, qua các điểm có độ cao 1497, 1806, 1825, 1952, 1967, 2122, 2038 đến giới
điểm số 15. Giới điểm này ở một chỏm núi không tên, cách điểm có độ cao 1558
trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,90 km về phía Tây Bắc, cách điểm có độ cao
2209 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,55 km về phía Đông, cách điểm có độ cao
2289 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,70 km về phía Nam – Tây Nam.
Từ giới điểm số 15, đường biên giới
theo sống núi, hướng chung là hướng Đông, qua điểm có độ cao 2076, sau khi cắt
qua một con suối đến một chỏm núi không tên, sau đó theo đường đỏ trên bản đồ
đính kèm Hiệp ước, qua các điểm có độ cao 1887, 1672 đến điểm có độ cao 1450,
rồi theo sống núi, hướng chung là hướng Nam chuyển Đông rồi hướng Bắc chuyển
Đông Bắc, qua các điểm có độ cao 1438, 1334, 716, 1077 đến giới điểm số 16.
Giới điểm này ở điểm có độ cao 1592, cách điểm có độ cao 1079 trong lãnh thổ
Việt Nam khoảng 2,40 km về phía Bắc, cách điểm có độ cao 1026 trong lãnh thổ
Trung Quốc khoảng 3,25 km về phía Đông Nam, cách điểm có độ cao 1521 trong lãnh
thổ Trung Quốc khoảng 1,05 km về phía Tây – Tây Bắc.
Từ giới điểm số 16, đường biên giới
theo sống núi, hướng chung Đông Nam chuyển Bắc, qua các điểm có độ cao 1578,
1503, 1493, 1359, 1342, 1296 đến điểm có độ cao 606, rồi theo sống núi nhỏ,
hướng Bắc – Tây Bắc chuyển Đông Bắc đến giới điểm số 17. Giới điểm này ở giữa
sông Miện (Babu), cách điểm có độ cao 654 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 3,30
km về phía Tây Bắc, cách điểm có độ cao 1383 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng
4,10 km về phía Bắc – Tây Bắc, cách điểm có độ cao 882 trong lãnh thổ Trung
Quốc khoảng 1,70 km về phía Nam – Đông Nam.
Từ giới điểm số 17, đường biên giới
theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước, hướng chung Đông – Đông Bắc, đến
điểm có độ cao 799, sau đó theo sống núi, hướng chung Đông Bắc, qua các điểm có
độ cao 998, 1096, 1029, 1092, 1251 đến điểm có độ cao 1132, rồi theo đường đỏ
trên bản đồ đính kèm Hiệp ước đến điểm có độ cao 1628, sau đó theo sống núi,
hướng chung Đông Nam chuyển Đông Bắc, qua các điểm có độ cao 1647, 1596, 1687,
1799, 1761, 1796 đến giới điểm số 18. Giới điểm này ở điểm có độ cao 1568, cách
điểm có độ cao 1677 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,90 km về phía Bắc, cách
điểm có độ cao 1701 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,70 km về phía Đông Nam,
cách điểm có độ cao 1666 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,55 km về phía Tây
Nam.
Từ giới điểm số 18, đường biên giới
theo sống núi, hướng chung Đông – Đông Nam chuyển Đông Bắc, qua các điểm có độ
cao 1771, 1756, 1707, 1500, 1683, 1771, 1651, 1545, 1928, 1718 đến điểm có độ
cao 1576, sau đó theo hướng Tây Bắc vượt qua hai khe, qua điểm có độ cao 1397,
rồi bắt vào sống núi, sau đó tiếp tục theo sống núi, hướng Tây Bắc chuyển Đông
Bắc, qua điểm có độ cao 1748 đến điểm có độ cao 1743, sau đó tiếp tục theo sống
núi, hướng Đông chuyển Bắc – Đông Bắc, qua các điểm có độ cao 1806, 1650, 1468,
1516, 1344, 1408 đến một chỏm núi không tên phía Tây Bắc của điểm có độ cao
này, rồi theo sống núi, hướng Đông Bắc đến giới điểm số 19. Giới điểm này ở
giữa sông Nho Quế (Pu Mei), cách điểm có độ cao 1477 trong lãnh thổ Việt Nam
khoảng 1,60 km về phía Tây – Tây Bắc, cách điểm có độ cao 1464 trong lãnh thổ
Trung Quốc khoảng 1,30 km về phía Đông – Đông Bắc, cách điểm có độ cao 1337
trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,20 km về phía Nam.
Từ giới điểm số 19, đường biên giới
xuôi sông Nho Quế (Pu Mei), hướng chung Đông Bắc chuyển Đông Nam đến giới điểm
số 20. Giới điểm này ở giữa sông Nho Quế (Pu Mei), cách điểm có độ cao 1062
trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,80 km về phía Đông – Đông Bắc, cách điểm có độ
cao 1080 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 5,20 km về phía Bắc – Tây Bắc, cách
điểm có độ cao 1443 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 2,85 km về phía Nam.
Từ giới điểm số 20, đường biên giới
rời sông bắt vào sống núi nhỏ, hướng Đông Bắc đến điểm có độ cao 801, sau đó
theo đường thẳng, hướng Đông Nam khoảng 2400 in đến điểm có độ cao 1048, theo
hướng Đông Nam cắt khe bắt vào sống núi, rồi theo sống núi, hướng chung Đông
Nam chuyển Đông Bắc, qua các điểm có độ cao 1122, 1170, 1175 đến điểm có độ cao
1641, sau đó theo sống núi, hướng Tây Bắc, cắt khe, rồi bắt vào sống núi hướng
Bắc – Đông Bắc qua các điểm có độ cao 1651, 1538 đến giới điểm số 21. Giới điểm
này ở điểm có độ cao 1697, cách điểm có độ cao 1642 trong lãnh thổ Việt Nam
khoảng 1,85 km về phía Bắc, cách điểm có độ cao 1660 trong lãnh thổ Trung Quốc
khoảng 1,80 km về phía Đông Nam, cách điểm có độ cao 1650 trong lãnh thổ Trung
Quốc khoảng 2,40 km về phía Nam – Tây Nam.
Từ giới điểm số 21, đường biên giới
theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước, hướng chung Đông Nam đến điểm có
độ cao 1591, sau đó theo sống núi hướng Nam – Đông Nam qua các điểm có độ cao
1726, 1681, 1699 đến điểm có độ cao 1694, tiếp đó theo đường đỏ trên bản đồ
đính kèm Hiệp ước, hướng Đông Nam, qua các điểm có độ cao 1514, 1486 đến điểm có
độ cao 1502, rồi theo sống núi, hướng Nam chuyển Đông Nam qua các điểm có độ
cao 1420, 1373, 1365 đến một chỏm núi không tên phía Bắc – Tây Bắc điểm có độ
cao 1383 trong lãnh thổ Việt Nam, từ đó đường biên giới theo đường thẳng hướng
Đông – Đông Bắc đến một chỏm núi nhỏ, sau đó lại theo đường thẳng tiếp tục theo
hướng này đến giới điểm số 22. Giới điểm này ở giữa con sông không tên (Yan
Dong), cách điểm có độ cao 1255 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,45 km về phía
Bắc, cách điểm có độ cao 1336 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,30 km về phía
Đông Nam, cách điểm có độ cao 956 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,22 km về
phía Tây – Tây Nam.
Từ giới điểm số 22, đường biên giới
xuôi theo sông không tên nói trên (Yan Dong), hướng Đông Bắc, sau đó rời sông,
qua điểm có độ cao 888, bắt vào sống núi, hướng chung Đông Nam chuyển Nam – Tây
Nam, qua điểm có độ cao 1091, một chỏm núi không tên phía Đông điểm có độ cao
1280 trong lãnh thổ Việt Nam, các điểm có độ cao 1288, 1282, 1320, 1212, 1218,
1098, 1408 đến điểm có độ cao 1403, rồi theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp
ước, hướng chung là hướng Nam chuyển Đông Nam, qua các điểm có độ cao 1423,
1378 đến điểm có độ cao 451, sau đó theo sống núi, hướng Đông đến giới điểm số
23. Giới điểm này ở giữa suối Cốc Pàng, cách điểm có độ cao 962 trong lãnh thổ
Việt Nam khoảng 3,10 km về phía Tây – Tây Bắc, cách điểm có độ cao 680 trong
lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,55 km về phía Tây Bắc, cách điểm có độ cao 723 trong
lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,60 km về phía Tây Nam.
Từ giới điểm số 23, đường biên giới
rời suối theo khe hướng Đông, rồi theo con đường mé Nam sống núi hoặc trên sống
núi, hướng chung là hướng Đông, qua các điểm có độ cao 914, 962, 901 đến điểm
có độ cao 982, sau đó ngược sườn núi hướng Đông Bắc bắt vào sống núi, rồi theo
sống núi, hướng chung là hướng Đông, qua các điểm có độ cao 819, 877 đến giới
điểm số 24. Giới điểm này nằm ở một chỏm núi không tên, cách điểm có độ cao 783
trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,53 km về phía Đông Bắc, cách điểm có độ cao
1418 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,15 km về phía Bắc, cách điểm có độ cao
779 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 2,00 km về phía Đông Nam.
Từ giới điểm số 24, đường biên giới
theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước, hướng Bắc – Tây Bắc chuyển Đông
Nam, qua các điểm có độ cao 1212, 1506, 1489, 1461 đến điểm có độ cao 921, sau
đó theo hướng Đông – Đông Nam cắt suối Khui Giồng, rồi bắt vào sống núi, sau đó
theo sống núi hướng chung Đông Nam, qua các điểm có độ cao 1265, 1191, 1301 đến
giới điểm số 25. Giới điểm này ở giữa sông Gậm (Bai Nan), cách điểm có độ cao
798 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,70 km về phía Bắc, cách điểm có độ cao 755
trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,65 km về phía Tây – Tây Bắc, cách điểm có độ
cao 936 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,45 km về phía Nam.
Từ giới điểm số 25, đường biên giới
rời sông bắt vào sống núi nhỏ, hướng Đông Nam đến điểm có độ cao 908, rồi theo
sống núi, hướng chung Đông Nam, qua điểm có độ cao 1196, chỏm núi không tên ở
phía Bắc – Tây Bắc điểm có độ cao 1377 trong lãnh thổ Việt Nam, các điểm có độ
cao 1254, 1297, 1274, 1262, 994, 1149, chỏm núi không tên ở phía Đông điểm có
độ cao 1302 trong lãnh thổ Việt Nam, các điểm có độ cao 1013, 1165, 829 đến
giới điểm số 26. Giới điểm này ở điểm có độ cao 1028, cách điểm có độ cao 1272 trong
lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,50 km về phía Đông – Đông Bắc, cách điểm có độ cao
1117 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,65 km về phía Đông Nam, cách điểm có độ
cao 893 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,35 km về phía Tây – Tây Bắc.
Từ giới điểm số 26, đường biên giới
theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước, hướng Đông Nam đến điểm có độ cao
662, rồi theo đường thẳng hướng Đông khoảng 500m đến một chỏm núi không tên,
sau đó theo sống núi, hướng chung là hướng Bắc chuyển Đông – Đông Bắc, qua các
điểm có độ cao 934, 951 đến điểm có độ cao 834, tiếp đó theo khe hướng Đông –
Đông Bắc, cắt suối Na Thin, rồi theo sống núi qua điểm có độ cao 824 đến điểm
có độ cao 1049, sau đó theo sống núi và khe, hướng Đông Nam, cắt một sống núi
nhỏ, rồi xuôi theo khe hướng Đông đến giới điểm số 27. Giới điểm này ở giữa
suối Nà Rì, cách điểm có độ cao 772 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,05 km về
phía Đông, cách điểm có độ cao 1334 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,65 km về
phía Tây Bắc, cách điểm có độ cao 848 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,10 km
về phía Đông Nam.
Từ giới điểm số 27, đường biên giới
rời suối, ngược khe lên sống núi, hướng Đông – Đông Bắc đến điểm có độ cao 706,
sau đó theo sống núi, hướng Bắc chuyển Đông – Đông Nam, qua các điểm có độ cao
807, 591, 513, 381 đến điểm có độ cao 371, sau đó theo sống núi, hướng Đông đến
giữa suối Pai Ngăm (Ping Mèng), rồi ngược suối này về hướng Bắc khoảng 200 m,
rời suối theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước, qua các điểm có độ cao
591, 722, 818, 706, 890 đến giới điểm số 28. Giới điểm này ở điểm có độ cao
917, cách điểm có độ cao 668 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,55 km về phía Tây
Bắc, cách điểm có độ cao 943 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,75 km về phía
Nam – Đông Nam, cách điểm có độ cao 955 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,90
km về phía Đông – Đông Bắc.
Từ giới điểm số 28, đường biên giới
theo sống núi, hướng chung là hướng Đông, qua các điểm có độ cao 790, 803, 601,
524, 934, chỏm núi không tên ở phía Nam điểm có độ cao 1025 trong lãnh thổ
Trung Quốc, các điểm có độ cao 871, 964, chỏm núi không tên phía Nam điểm có độ
cao 855 trong lãnh thổ Trung Quốc, các điểm có độ cao 978, 949 đến điểm có độ
cao 829, sau đó theo sườn núi, hướng Đông đến giới điểm số 29. Giới điểm này ở
điểm có độ cao 890, cách điểm có độ cao 1007 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng
1,50 km về phía Đông Bắc, cách điểm có độ cao 1060 trong lãnh thổ Việt Nam
khoảng 1,05 km về phía Tây Bắc, cách điểm có độ cao 1047 trong lãnh thổ Trung
Quốc khoảng 2,45 km về phía Tây Nam.
Từ giới điểm số 29, đường biên giới
theo sườn núi phía Nam điểm có độ cao 1073 trong lãnh thổ Trung Quốc, hướng
Đông đến điểm có độ cao 1077, rồi theo sống núi, hướng chung là hướng Đông
chuyển Đông Nam, qua các điểm có độ cao 1104, 1115, 1073, 942, 832, 1068, 1066,
1066, 1030, 1028, 982, 1021, 826, 911 đến giới điểm số 30. Giới điểm này ở một
con đường nhỏ, cách điểm có độ cao 770 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,40 km
về phía Tây, cách điểm có độ cao 764 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,75 km về
phía Bắc – Tây Bắc, cách điểm có độ cao 888 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng
1,80 km về phía Nam.
Từ giới điểm số 30, đường biên giới
theo sống núi, hướng chung Đông Bắc, cắt qua một suối không tên đến điểm có độ
cao 715, rồi theo mé Nam và mé Đông một con đường của Trung Quốc, hướng Đông
chuyển Bắc – Đông Bắc, cắt qua một con đường từ Việt Nam sang Trung Quốc, rồi
theo dốc núi mé Tây Nam điểm có độ cao 903 trong lãnh thổ Trung Quốc bắt vào
sống núi, hướng Đông Nam đến giới điểm số 31. Giới điểm này ở điểm có độ cao
670, cách điểm có độ cao 770 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,90 km về phía
Đông Bắc, cách điểm có độ cao 823 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,60 km về
phía Bắc – Tây Bắc, cách điểm có độ cao 976 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng
0,80 km về phía Tây Nam.
Từ giới điểm số 31, đường biên giới
đi theo sống núi, hướng chung Đông Nam qua điểm có độ cao 955 đến điểm có độ
cao 710, sau đó theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước, qua điểm có độ cao
940 đến điểm có độ cao 780, rồi theo sống núi, hướng Đông Bắc, qua điểm có độ
cao 780 đến điểm có độ cao 625, sau đó tiếp tục theo sống núi, hướng Đông đến
giới điểm số 32. Giới điểm này ở giữa sông Bắc Vọng (Ba Bang), cách điểm có độ
cao 792 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,35 km về phía Tây Bắc, cách điểm có độ
cao 808 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,85 km về phía Đông Bắc, cách điểm có
độ cao 822 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,05 km về phía Nam – Tây Nam.
Từ giới điểm số 32, đường biên giới
rời sông bắt vào sống núi, hướng chung là hướng Đông chuyển Đông Bắc, qua các
điểm có độ cao 890, 667, 906, 691, 854, 884, 701, 884, 783, 619, 856, 591, 907,
651, 580, 785, 925, 950 đến giới điểm số 33. Giới điểm này ở giữa sông Quây Sơn
(Nan Tan), cách điểm có độ cao 922 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,65 km về
phía Bắc – Đông Bắc, cách điểm có độ cao 685 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng
1,10 km về phía Tây Nam, cách điểm có độ cao 965 trong lãnh thổ Trung Quốc
khoảng 1,30 km về phía Đông – Đông Nam.
Từ giới điểm số 33, đường biên giới
rời sông bắt vào sống núi, hướng Đông Bắc, qua điểm có độ cao 612 đến điểm có
độ cao 624, sau đó tiếp tục theo sống núi, hướng chung Đông Nam, qua các điểm
có độ cao 521, 725, 845, 825, 755, 726, 516, 735, 902, 764, 573, 693, 627 đến
giới điểm số 34. Giới điểm này ở điểm có độ cao 505, cách điểm có độ cao 791
trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,60 km về phía Bắc – Đông Bắc, cách điểm có độ
cao 632 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,80 km về phía Đông – Đông Bắc, cách
điểm có độ cao 655 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,65 km về phía Nam – Tây
Nam.
Từ giới điểm số 34, đường biên giới
theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước qua điểm có độ cao 878 đến điểm có
độ cao 850, sau đó theo sống núi hướng chung là Đông Nam chuyển Đông Bắc, qua
các điểm có độ cao 837, 758, 712, 492, 695, 449 đến điểm có độ cao 624, rồi
tiếp tục theo sống núi, hướng chung Đông – Đông Nam chuyển Tây Nam, qua các
điểm có độ cao 731, 737, 805, 866, 752, 605, 815 đến giới điểm số 35. Giới điểm
này ở cách điểm có độ cao 709 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,90 km về phía
Đông Bắc, cách điểm có độ cao 782 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,10 km về
phía Nam, cách điểm có độ cao 794 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,45 km về
phía Tây.
Từ giới điểm số 35, đường biên giới
theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước đến giữa sông Quây Sơn, sau đó xuôi
sông này, hướng chung Đông Nam đến giới điểm số 36. Giới điểm này ở giữa sông
Quây Sơn, cách điểm có độ cao 660 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,20 km về
phía Đông Bắc, cách điểm có độ cao 589 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,05 km
về phía Tây, cách điểm có độ cao 613 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,50 km
về phía Tây Nam.
Từ giới điểm số 36, đường biên giới
rời sông theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước qua các điểm có độ cao
597, 653, 560, 367, 629, 717, 685, 746 đến giới điểm số 37. Giới điểm này ở
điểm có độ cao 620, cách điểm có độ cao 665 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,80
km về phía Đông, cách điểm có độ cao 640 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,50
km về phía Tây – Tây Bắc, cách điểm có độ cao 592 trong lãnh thổ Trung Quốc
khoảng 1,90 km về phía Tây Nam.
Từ giới điểm số 37, đường biên giới
theo sống núi, hướng Đông Nam chuyển Tây – Tây Nam, qua điểm có độ cao 336 đến
một chỏm núi không tên, sau đó theo sống núi, hướng Đông Nam đến một yên ngựa,
rồi theo khe, hướng Tây Nam đến đầu một con suối không tên, sau đó xuôi theo
suối đó, hướng Tây Nam, rồi rời suối, theo hướng Tây Nam qua điểm có độ cao 348
đến một yên ngựa, tiếp đó theo hướng Tây qua một lũng nhỏ đến giới điểm số 88.
Giới điểm này cách điểm có độ cao 723 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,95 km về
phía Đông – Đông Nam, cách điểm có độ cao 685 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng
1,35 km về phía Đông Bắc, cách điểm có độ cao 630 trong lãnh thổ Trung Quốc
khoảng 1,00 km về phía Tây.
Từ giới điểm số 38, đường biên giới
theo sống núi, hướng chung Đông Nam chuyển Tây Nam, qua các điểm có độ cao 635,
656, cắt suối Luộc, qua điểm có độ cao 627 đến chỏm núi không tên ở phía Tây
Bắc điểm có độ cao 723 trong lãnh thổ Trung Quốc, sau đó hướng Nam – Đông Nam,
qua điểm có độ cao 412 bắt vào sống núi, hướng chung là hướng Nam, qua các điểm
có độ cao 727, 745, 664, 487, 615, 473, 586 đến giới điểm số 39. Giới điểm này
ở giữa đường mòn, cách điểm có độ cao 682 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,20
km về phía Đông Nam, cách điểm có độ cao 660 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng
1,10 km về phía Tây Nam, cách điểm có độ cao 612 trong lãnh thổ Trung Quốc
khoảng 1,30 km về phía Tây – Tây Bắc.
Từ giới điểm số 39, đường biên giới
theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước qua điểm có độ cao 303 đến điểm có
độ cao 558, sau đó theo sống núi, hướng chung là Tây Nam, qua các điểm có độ
cao 591, 521 đến giữa một con suối không tên, rồi xuôi theo suối này, hướng Tây
Nam đến hợp lưu của nó với một con suối khác, tiếp đó rời suối bắt vào sống
núi, hướng chung Tây Bắc chuyển Tây Nam, qua các điểm có độ cao 602, 657, 698,
565 đến giới điểm số 40. Giới điểm này ở giữa sông Bắc Vọng (Ba Wang), cách
điểm có độ cao 689 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 3,05 km về phía Đông Bắc,
cách điểm có độ cao 529 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,06 km về phía Đông – Đông
Nam, cách điểm có độ cao 512 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,95 km về phía
Tây Bắc.
Từ giới điểm số 40, đường biên giới
xuôi sông Bắc Vọng (Ba Wang), hướng chung là hướng Nam đến hợp lưu của nó với
sông Bằng Giang, sau đó ngược sông Bằng Giang, hướng chung Tây Bắc đến giới
điểm số 41. Giới điểm này ở giữa sông Bằng Giang, cách điểm có độ cao 345 trong
lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,45 km về phía Đông – Đông Nam, cách điểm có độ cao
202 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,05 km về phía Nam – Tây Nam, cách điểm có
độ cao 469 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,35 km về phía Bắc – Đông Bắc.
Từ giới điểm số 41, đường biên giới
rời sông, hướng Tây đến điểm có độ cao 153, sau đó theo sống núi, hướng Tây Nam
chuyển Nam, qua các điểm có độ cao 332, 463, 404, 544, 303 đến điểm có độ cao
501, rồi tiếp tục theo sống núi, hướng Đông chuyển Nam, qua các điểm có độ cao
255, 259, đến điểm có độ cao 472, sau đó tiếp tục theo sống núi, hướng Đông Nam
chuyển Tây Nam, qua các điểm có độ cao 600, 552, 550, 530, 323, 514 đến một chỏm
núi không tên ở phía Đông Nam điểm có độ cao 597 trong lãnh thổ Việt Nam, lại
theo sống núi hướng Tây Nam, cắt khe, rồi theo sườn núi mé Đông Nam điểm có độ
cao 658 trong lãnh thổ Việt Nam, hướng chung là hướng Tây đến điểm có độ cao
628, từ đây đường biên giới theo sống núi hướng Nam, qua các điểm có độ cao
613, 559 đến một điểm ở sống núi, sau đó theo đường thẳng, hướng Đông Nam đến
giới điểm số 42. Giới điểm này ở điểm có độ cao 417, cách điểm có độ cao 586
trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,70 km về phía Bắc – Tây Bắc, cách điểm có độ
cao 494 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,10 km về phía Bắc – Đông Bắc, cách
điểm có độ cao 556 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,85 km về phía Nam – Tây
Nam.
Từ giới điểm số 42, đường biên giới
theo hướng Đông Bắc đến một chỏm núi không tên, sau đó theo đường thẳng hướng
Đông đến một chỏm núi không tên khác, từ đó đường biên giới theo sống núi,
hướng chung là hướng Đông, qua các điểm có độ cao 567, 506, 517, 534, 563 đến
điểm có độ cao 542, rồi theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước đến điểm có
độ cao 570, sau đó lại theo sống núi, hướng Đông Nam chuyển Nam, qua điểm có độ
cao 704 đến giới điểm số 43. Giới điểm này ở giữa một con suối không tên, cách
điểm có độ cao 565 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,80 km về phía Đông – Đông
Nam, cách điểm có độ cao 583 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,10 km về phía
Nam, cách điểm có độ cao 561 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,87 km về phía
Tây – Tây Nam.
Từ giới điểm số 43, đường biên giới
xuôi theo suối không tên về hướng Đông Nam khoảng 500 mét, sau đó rời suối này
theo hướng Đông, cắt qua một sống núi nhỏ đến khe, chuyển hướng Nam – Đông Nam
xuống giữa con suối nói trên, tiếp đó xuôi theo suối này, hướng Nam, đến hợp
lưu của suối này với một nhánh suối khác, sau đó theo đường đỏ trên bản đồ đính
kèm Hiệp ước qua các điểm có độ cao 632, 637 đến giới điểm số 44. Giới điểm này
ở giữa đường phòng hỏa, cách điểm có độ cao 666 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng
0,50 km về phía Bắc, cách điểm có độ cao 943 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,56
km về phía Tây Nam, cách điểm có độ cao 710 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng
2,30 km về phía Tây.
Từ giới điểm số 44, đường biên giới
theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước (trong đó đoạn nào theo đường phòng
hỏa thì theo trung tuyến của đường phòng hỏa) qua các điểm có độ cao 637, 383
đến điểm có độ cao 324, sau đó theo sống núi nhỏ, hướng Nam – Tây Nam đến giữa
nhánh phía Tây suôn Khuổi Lạn, sau đó xuôi theo suối này, hướng Nam đến giới
điểm số 45. Giới điểm này ở giữa suối Khuổi Lạn, cách điểm có độ cao 293 trong
lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,90 km về phía Đông – Đông Bắc, cách điểm có độ cao
323 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,42 km về phía Đông Nam, cách điểm có độ
cao 322 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,60 km về phía Tây – Tây Nam.
Từ giới điểm số 45, đường biên giới
rời suối bắt vào sống núi nhỏ, hướng Đông – Đông Nam đến điểm có độ cao 245,
sau đó theo đường thẳng, hướng Nam, đến giữa sông Kỳ Cùng (Bình Nhi), tiếp đó
ngược sông Kỳ Cùng (Bình Nhi), hướng chung Tây Nam đến giới điểm số 46. Giới
điểm này ở giữa sông Kỳ Cùng bình Nhi), cách điểm có độ cao 185 trong lãnh thổ
Việt Nam khoảng 0,55 km về phía Đông Bắc, cách điểm có độ cao 293 trong lãnh
thổ Việt Nam khoảng 1,22 km về phía Nam – Tây Nam, cách điểm có độ cao 270
trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,45 km về phía Tây – Tây Bắc.
Từ giới điểm số 46, đường biên giới
rời sông, hướng Nam, bắt vào sống núi đến điểm có độ cao 269, sau đó theo sống
núi, hướng Tây Nam chuyển Đông Nam, tiếp đó theo hướng Nam, qua các điểm có độ
cao 303, 304, 321, 284 đến giới điểm số 47. Giới điểm này ở ngã ba suối, cách
điểm có độ cao 329 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,85 km về phía Nam – Đông
Nam, cách điểm có độ cao 313 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,65 km về phía
Bắc, cách điểm có độ cao 251 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,20 km về phía
Tây.
Từ giới điểm số 47, đường biên giới
rời suôn bắt vào sống núi nhỏ, hướng Đông Nam, qua mé Tây Nam điểm có độ cao
255 trong lãnh thổ Trung Quốc, bắt vào sống núi, rồi theo sống núi, hướng chung
là hướng Nam qua các điểm có độ cao 281, 357 đến điểm có độ cao 344, sau khi
cắt một suối không tên, ngược dốc bắt vào sống núi, rồi theo sống núi qua điểm
có độ cao 428 đến điểm có độ cao 409, sau đó theo đường thẳng, hướng Nam đến
điểm có độ cao 613, rồi theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước đến giới
điểm số 48. Giới điểm này ở điểm có độ cao 718, cách điểm có độ cao 658 trong
lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,44 km về phía Đông, cách điểm có độ cao 832 trong
lãnh thổ Trung Quốc khoảng 2,50 km về phía Tây Nam, cách điểm có độ cao 836
trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,65 km về phía Tây.
Từ giới điểm số 48, đường biên giới
theo sống núi, hướng Đông Nam đến điểm có độ cao 852, sau đó theo đường đỏ trên
bản đồ đính kèm Hiệp ước đến điểm có độ cao 695, rồi lại theo sống núi, hướng
Tây Nam chuyển Nam, qua các điểm có độ cao 702, 411, cắt một con đường, qua
điểm có độ cao 581 đến giới điểm số 49. Giới điểm này ở điểm có độ cao 549,
cách điểm có độ cao 436 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,10 km về phía Đông,
cách điểm có độ cao 511 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,45 km về phía Đông
Nam, cách điểm có độ cao 557 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,40 km về phía
Tây Nam.
Từ giới điểm số 49, đường biên giới
theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước, hướng chung là Nam – Đông Nam rồi
chuyển Đông Bắc, qua các điểm có độ cao 359, 364, 406 đến giới điểm số 50. Giới
điểm này ở điểm có độ cao 610, cách điểm có độ cao 618 trong lãnh thổ Việt Nam
khoảng 2,30 km về phía Tây – Tây Nam, cách điểm có độ cao 395 trong lãnh thổ
Việt Nam khoảng 0,90 km về phía Bắc, cách điểm có độ cao 730 trong lãnh thổ
Trung Quốc khoảng 1,80 km về phía Nam.
Từ giới điểm số 50, đường biên giới
theo sống núi, hướng Bắc – Đông Bắc đến một chỏm núi không tên ở phía Tây điểm
có độ cao 634 trong lãnh thổ Việt Nam, sau đó theo đường đỏ trên bản đồ đính
kèm Hiệp ước qua điểm có độ cao 758 đến điểm có độ cao 742, rồi theo sống núi,
hướng chung Đông – Đông Nam qua các điểm có độ cao 540, 497, 381 đến giới điểm
số 51. Giới điểm này ở giữa suối Khuổi Đẩy, cách điểm có độ cao 388 trong lãnh
thổ Việt Nam khoảng 0,60 km về phía Đông Bắc, cách điểm có độ cao 411 trong
lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,60 km về phía Tây Nam, cách điểm có độ cao 386
trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,75 km về phía Nam – Đông Nam.
Từ giới điểm số 51, đường biên giới
theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước qua các điểm có độ cao 451, 427 đến
điểm có độ cao 475, sau đó theo sống núi, hướng chung là hướng Đông, qua các
điểm có độ cao 499, 506, 511, 475, 477, 483, 486 đến điểm có độ cao 438, rồi
theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước đến giới điểm số 52. Giới điểm này
ở điểm có độ cao 392, cách điểm có độ cao 389 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng
1,10 km về phía Bắc – Tây Bắc, cách điểm có độ cao 356 trong lãnh thổ Trung
Quốc khoảng 1,65 km về phía Đông Nam, cách điểm có độ cao 408 trong lãnh thổ
Trung Quốc khoảng 2,70 km về phía Nam – Tây Nam.
Từ giới điểm số 52, đường biên giới
theo sống núi, hướng chung là hướng Đông chuyển Đông Nam rồi Đông Bắc, qua các
điểm có độ cao 396, 402, 351, 361, 494, 476, 387, 432, 444, 389, 488, 480, 347
đến giới điểm số 53. Giới điểm này ở điểm có độ cao 248, cách điểm có độ cao
813 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,00 km về phía Bắc – Tây Bắc, cách điểm có
độ cao 331 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,75 km về phía Nam – Tây Nam, cách
điểm có độ cao 328 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,05 km về phía Đông – Đông
Nam.
Từ giới điểm số 53, đường biên giới
theo sống núi, hướng chung Đông Nam chuyển Tây Nam, qua các điểm có độ cao 401,
398, 409, 498, 509, 425, 456, 404, 475, 502, 721, 704, 939, 1282 đến điểm có độ
cao 1358, sau đó tiếp tục theo sống núi, hướng Nam chuyển Đông Nam, qua các
điểm có độ cao 851, 542 đến giới điểm số 54. Giới điểm này cách điểm có độ cao
632 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,70 km về phía Đông, cách điểm có độ cao
473 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,40 km về phía Bắc, cách điểm có độ cao 545
trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,50 km về phía Nam.
Từ giới điểm số 54, đường biên giới
theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước, hướng chung Đông – Đông Nam, qua
các điểm có độ cao 370, 344, 366, 337 đến điểm có độ cao 435, sau đó theo sống
núi, hướng chung Đông Nam, qua các điểm có độ cao 401, 440, 351, 438, 470, 612,
640, 651, 534, 525 đến giới điểm số 55. Giới điểm này ở điểm có độ cao 523,
cách điểm có độ cao 551 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,80 km về phía Đông
Nam, cách điểm có độ cao 480 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,95 km về phía
Bắc, cách điểm có độ cao 528 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,14 km về phía
Tây.
Từ giới điểm số 55, đường biên giới
theo sống núi, hướng Đông – Đông Nam, qua các điểm có độ cao 506, 577, 670 đến
điểm có độ cao 788, từ đó theo đường phân thủy giữa các nhánh sông trong lãnh
thổ Việt Nam và các nhánh sông trong lãnh thổ Trung Quốc, hướng chung Đông Bắc
chuyển Đông Nam, qua các điểm có độ cao 870, 825, 894, 855, 736, 706, 1029 đến
giới điểm số 56. Giới điểm này ở điểm có độ cao 705, cách điểm có độ cao 863
trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,80 km về phía Đông, cách điểm có độ cao 861
trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,00 km về phía Bắc – Đông Bắc, cách điểm có độ
cao 913 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 2,20 km về phía Tây – Tây Nam.
Từ giới điểm số 56, đường biên giới theo
đường phân thủy giữa các nhánh sông trong lãnh thổ Việt Nam và các nhánh sông
trong lãnh thổ Trung Quốc, hướng chung Đông Bắc, qua các điểm có độ cao 652,
975, 875, 835, 1150, 1082 đến giới điểm số 57. Giới điểm này ở điểm có độ cao
882, cách điểm có độ cao 638 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 3,55 km về phía
Đông Bắc, cách điểm có độ cao 1265 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,95 km về
phía Nam – Tây Nam, cách điểm có độ cao 1025 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng
2,20 km về phía Tây – Tây Nam.
Từ giới điểm số 57, đường biên giới
theo sống núi, hướng Tây Nam đến điểm tiếp nối với một khe, rồi theo khe, hướng
Nam – Đông Nam, đến giữa suối Tài Vằn, sau đó xuôi suối này và hạ lưu của nó là
suối Nà Sa đến giới điểm số 58. Giới điểm này ở hợp lưu suối Nà Sa với một
nhánh sông nằm ở phía Đông, cách điểm có độ cao 423 trong lãnh thổ Việt Nam
khoảng 0,95 km về phía Đông, cách điểm có độ cao 447 trong lãnh thổ Việt Nam
khoảng 0,75 km về phía Nam, cách điểm có độ cao 320 trong lãnh thổ Trung Quốc
khoảng 2,45 km về phía Tây.
Từ giới điểm số 58, đường biên giới
ngược nhánh sông phía Đông nói trên đến ngã ba sông Đồng Mô, rồi ngược sông
Đồng Mô, Bỉ Lao, Cao Lạn đến giới điểm số 59. Giới điểm này ở hợp lưu hai con
suối Cao Lạn và Phai Lầu, cách điểm có độ cao 1052 trong lãnh thổ Việt Nam
khoảng 2,10 km về phía Bắc, cách điểm có độ cao 600 trong lãnh thổ Việt Nam
khoảng 0,57 km về phía Đông, cách điểm có độ cao 602 trong lãnh thổ Trung Quốc
khoảng 1,00 km về phía Tây.
Từ giới điểm số 59, đường biên giới
ngược suối Cao Lạn hướng Đông Nam, sau đó rời suối đi theo đường thẳng hướng
Đông – Đông Nam đến một chỏm núi không tên phía Bắc điểm có độ cao 960 trong
lãnh thổ Việt Nam, rồi theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước đến giới
điểm số 60. Giới điểm này ở điểm có độ cao 1100, cách điểm có độ cao 1156 trong
lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,10 km về phía Bắc – Tây Bắc, cách điểm có độ cao 683
trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 2,65 km về phía Tây Nam, cách điểm có độ cao
1094 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,95 km về phía Nam – Tây Nam.
Từ giới điểm số 60, đường biên giới
theo sống núi nhỏ hướng Đông Bắc, xuống khe, rồi theo khe hướng chung là hướng
Đông Bắc chuyển Đông – Đông Nam, đến một nhánh thượng lưu sông Ka Long, sau đó
xuôi theo sông này, hướng Đông – Đông Bắc, đến giới điểm số 61. Giới điểm này ở
hợp lưu sông Ka Long với một sông khác (Bắc Luân), cách điểm có độ cao 561
trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,20 km về phía Đông Bắc, cách điểm có độ cao
117 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,95 km về phía Tây Bắc, cách điểm có độ cao
224 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,60 km về phía Nam – Tây Nam.
Từ giới điểm số 61, đường biên giới
xuôi theo trung tuyến luồng chính tầu thuyền đi lại của sông Ka Long, Bắc Luân,
đến điểm cuối của nó, bắt vào giới điểm số 62. Giới điểm này là điểm tiếp nối
đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của hai nước Việt Nam và Trung
Quốc.
Các cồn, bãi nằm hai bên đường đỏ của
các đoạn biên giới theo sông suối trên bản đồ đính kèm Hiệp ước đã được quy
thuộc theo đường đỏ.
Đường biên giới trên đất liền giữa
hai nước mô tả ở điều này được vẽ bằng đường đỏ trên bản đồ tỷ lệ 1/50.000 do
hai bên cùng xác định, độ dài và diện tích dùng trong mô tả đường biên giới
được đo từ bản đồ này. Bộ bản đồ nói trên đính kèm Hiệp ước này là bộ phận cấu
thành không thể tách rời của Hiệp ước.
Điều III.
Hai Bên ký kết đồng ý vị trí chính
xác điểm gặp nhau của đường biên giới giữa ba nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào sẽ do ba
nước thỏa thuận xác định.
Điều IV.
Mặt thẳng đứng đi theo đường biên
giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc nói tại Điều II của Hiệp ước này
phân định vùng trời và lòng đất giữa hai nước.
Điều V.
Hai Bên ký kết đồng ý, trừ khi đã
được Hiệp ước này quy định rõ ràng, đường biên giới Việt – Trung nói tại Điều
II, đối với những đoạn lấy sông suối làm biên giới thì ở những đoạn sông suối
tầu thuyền không đi lại được, đường biên giới đi theo trung tuyến của dòng chảy
hoặc của dòng chảy chính; ở những đoạn sông suối tầu thuyền đi lại được, đường
biên giới đi theo trung tuyến của luồng chính tầu thuyền đi lại. Vị trí chính
xác trung tuyến của dòng chảy, của dòng chảy chính hoặc của trung tuyến luồng
chính tầu thuyền đi lại và sự quy thuộc của các cồn, bãi trên sông suối biên
giới sẽ được hai Bên ký kết xác định cụ thể khi phân giới, cắm mốc.
Tiêu chuẩn chính để xác định dòng
chảy chính là lưu lượng dòng chảy ở mực nước trung bình. Tiêu chuẩn chính để
xác định luồng chính tầu thuyền đi lại là độ sâu của luồng tầu thuyền đi lại,
kết hợp với chiều rộng và bán kính độ cong của luồng tầu thuyền đi lại để xem
xét tổng hợp. Trung tuyến của luồng chính tầu thuyền đi lại là trung tuyến mặt
nước giữa hai đường đẳng sâu tương ứng đánh dấu luồng chính tầu thuyền đi lại.
Bất kỳ sự thay đổi nào có thể xảy ra
đối với sông suối biên giới đều không làm thay đổi hướng đi của đường biên
giới, không ảnh hưởng đến vị trí của đường biên giới Việt – Trung đã được xác
định trên thực địa cũng như sự quy thuộc của các cồn, bãi, trừ khi hai Bên ký
kết có thỏa thuận khác. Những cồn, bãi mới xuất hiện trên sông suối biên giới
sau khi đường biên giới đã được xác định trên thực địa sẽ được phân định theo
đường biên giới đã được xác định trên thực địa. Nếu các cồn, bãi mới xuất hiện
nằm trên đường biên giới đã được xác định trên thực địa thì hai Bên ký kết sẽ
bàn bạc xác định sự quy thuộc trên cơ sở công bằng, hợp lý.
Điều VI.
1. Hai Bên ký kết quyết định thành
lập ủy ban Liên hợp phân giới và cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam –
Trung Quốc dưới đây gọi là ủy ban Liên hợp phân giới, cắm mốc) và giao cho ủy
ban này nhiệm vụ xác định trên thực địa đường biên giới Việt – Trung như đã nêu
trong Điều II của Hiệp ước này và tiến hành công việc phân giới, cắm mốc, cụ
thể là xác định vị trí chính xác của đường sống núi, đường phân thủy, trung
tuyến của dòng chảy hoặc dòng chảy chính, trung tuyến luồng chính tầu thuyền đi
lại và các đoạn đường biên giới khác, xác định rõ sự quy thuộc của các cồn, bãi
trên sông suối biên giới, cùng nhau cắm mốc giới, soạn thảo Nghị định thư về
biên giới trên đất liền giữa hai nước, gồm cả hồ sơ chi tiết về vị trí các mốc
giới, vẽ bản đồ chi tiết đính kèm Nghị định thư thể hiện hướng đi của đường
biên giới và vị trí các mốc giới trên toàn tuyến, cũng như giải quyết các vấn
đề cụ thể liên quan đến việc hoàn thành các nhiệm vụ kể trên.
2. Ngay sau khi có hiệu lực, Nghị
định thư về biên giới trên đất liền giữa hai nước nói tại khoản 1 Điều này trở
thành một bộ phận của Hiệp ước này và bản đồ chi tiết đính kèm Nghị định thư
này thay thế bản đồ đính kèm Hiệp ước này.
3. ủy ban Liên hợp phân giới, cắm mốc
bắt đầu công việc ngay sau khi Hiệp ước này có hiệu lực và chấm dứt hoạt động
sau khi Nghị định thư và bản đồ chi tiết đính kèm về đường biên giới trên đất
liền giữa hai nước được ký kết.
Điều VII.
Sau khi Nghị định thư về biên giới
trên đất liền giữa hai nước và bản đồ chi tiết đính kèm có hiệu lực, hai Bên ký
kết sẽ ký kết Hiệp ước hoặc Hiệp định về quy chế quản lý biên giới giữa hai
nước để thay thế Hiệp
định tạm thời về việc giải quyết công việc trên vùng biên giới giữa Chính phủ
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa ký ngày 07 tháng 11 năm 1991.
Điều VIII.
Hiệp ước này được hai Bên ký kết phê
chuẩn và có hiệu lực kể từ ngày trao đổi các văn kiện phê chuẩn. Các văn kiện
phê chuẩn sớm được trao đổi tại Bắc Kinh.
Hiệp ước này được ký tại Hà Nội, ngày
30 tháng 12 năm 1999 thành hai bản, mỗi bản bằng tiếng Việt và tiếng Trung, cả
hai văn bản đều có giá trị như nhau.
Đại diện toàn quyền
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam |
Đại diện toàn quyền
nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa |
Đã ký
|
Đã ký
|
Nội dung của Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ (2004)
Ngày 24-6-2004, Chủ tịch nước Việt
Nam đã ký Lệnh số 16-2004/L/CTN công bố Nghị quyết về việc phê chuẩn “Hiệp định
giữa nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà Nhân dân Trung
Hoa về phần định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước
trong Vịnh Bắc Bộ", đã được Quốc hội nước CNXHCN Việt Nam khóa XI, kỳ họp
thứ 5 thông qua ngày 15-6-2004.
Ngày 30-6-2004 tại Hà Nội đã diễn ra
lễ trao đổi văn kiện thư phê chuẩn Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ giữa hai
nước.
Dưới đây là toàn văn Hiệp định:
Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (dưới đây gọi là "hai Bên ký
kết");
Nhằm củng cố và phát triển mối quan
hệ láng giềng hữu nghị truyền thống giữa hai nước và nhân dân hai nước Việt Nam
và Trung Quốc, giữ gìn và thúc ấy sự ổn định và phát triển của Vịnh Bắc Bộ;
Trên cơ sở các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau,
bình đẳng cùng có lợi, cùng tồn tại hòa bình;
Trên tinh thần thông cảm, nhân
nhượng lẫn nhau, hiệp thương hữu nghị và giải quyết một cách công bằng, hợp lý
vấn đề phân định Vịnh Bắc Bộ; Đã thoả thuận như sau:
Điều I
1 . Hai Bên ký kết căn cứ vào Công
ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, các nguyên tắc luật pháp và thực
tiễn quốc tế được công nhận, trên cơ sở suy xét đầy đủ mọi hoàn cảnh hữu quan
trong Vịnh Bắc Bộ, theo nguyên tắc công bằng, qua thương lượng hữu nghị đã phân
định lãnh hài, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước trong Vịnh
Bắc Bộ.
2. Trong Hiệp định này, Vịnh Bắc Bộ
là vịnh nửa kín được bao bọc ở phía Bắc bởi bờ biển lãnh thố đất liền của hai
nước Việt Nam và Trung Quốc, phía Đông bởi bờ biển bán đảo Lôi Châu và đảo Hải
Nam của Trung Quốc, phía Tây bởi bờ biển đất liền Việt Nam và giới hạn phía Nam
bởi đoạn thẳng nối liền từ điểm nhô ra nhất của mép ngoài cùng của mũi Oanh Ca
- đảo Hải Nam của Trung Quốc có tọa độ địa lý là vĩ tuyến 18 o 30 19" Bắc,
kinh tuyến 1080 41 17" Đông, qua đảo Cồn Cỏ của Việt Nam đến một điểm trên
bờ biển của Việt Nam có tọa độ địa lý là vĩ tuyến 160 57 40" Bắc và kinh
tuyến 107o 08 42" Đông.
Hai Bên ký kết xác định khu vực nói
trên là phạm vi phân định của Hiệp định này.
Điều II
Hai Bên ký kết đồng ý đường phân
định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước trong Vịnh
Bắc Bộ được xác định bằng 21 điểm nối tuần tự với nhau bằng các đoạn thẳng, toạ
độ địa lý của 21 điểm này như sau:
Điểm số 1:
Vĩ độ 210 28’12”.5 Bắc
Kinh độ 1080 06’04”.3 Đông
Điểm số 2:
Vĩ độ 210 28’0”.7 Bắc
Kinh độ 1080 06’01”.6 Đông
Điểm số 3:
Vĩ độ 210 27’50”.1 Bắc
Kinh độ 1080 05’57”.7 Đông
Điểm số 4:
Vĩ độ 210 27’39”.5 Bắc
Kinh độ 1080 05’51”.5 Đông
Điểm số 5:
Vĩ độ 210 27’28”.2 Bắc
Kinh độ 1080 05’39”.9 Đông
Điểm số 6:
Vĩ độ 210 27’23”.1 Bắc
Kinh độ 1080 05’38”.8 Đông
Điểm số 7:
Vĩ độ 210 27’8”.2 Bắc
Kinh độ 1080 05’43”.7 Đông
Điểm số 8:
Vĩ độ 210 16’32” Bắc
Kinh độ 1080 08’05” Đông
Điểm số 9:
Vĩ độ 210 12’35” Bắc
Kinh độ 1080 12’31” Đông
Điểm số 10:
Vĩ độ 200 24’5” Bắc
Kinh độ 1080 22’45” Đông
Điểm số 11:
Vĩ độ 190 57’33” Bắc
Kinh độ 1070 55’47” Đông
Điểm số 12:
Vĩ độ 190 39’33” Bắc
Kinh độ 1070 31’40” Đông
Điểm số 13:
Vĩ độ 190 25’26” Bắc
Kinh độ 1070 21’00” Đông
Điểm số 14:
Vĩ độ 190 25’26” Bắc
Kinh độ 1070 12’43” Đông
Điểm số 15:
Vĩ độ 190 16’4” Bắc
Kinh độ 1070 11’23” Đông
Điểm số 16:
Vĩ độ 190 12’55” Bắc
Kinh độ 1070 09’34” Đông
Điểm số 17:
Vĩ độ 180 42’52” Bắc
Kinh độ 1070 09’34”Đông
Điểm số 18:
Vĩ độ 180 13’49” Bắc
Kinh độ 1070 34’00” Đông
Điểm số 19:
Vĩ độ 180 07’08” Bắc
Kinh độ 1070 37’34” Đông
Điểm số 20:
Vĩ độ 180 04’13” Bắc
Kinh độ 1070 39’09”. Đông
Điểm số 21:
Vĩ độ 170 47’00” Bắc
Kinh độ 1070 58’00” Đông
Điều III
1 . Đường phân định từ điểm số 1 đến
điểm số 9 quy định tại Điều II của Hiệp định này là biên giới lãnh hải của hai
nước trong Vịnh Bắc Bộ.
2. Mặt thẳng đứng đi theo đường biên
giới lãnh hải của hai nước quy định tại khoản 1 Điều này phân định vùng trời,
đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải hai nước.
3. Mọi sự thay đổi địa hình đều
không làm thay đổi đường biên giới lãnh hải hai nước từ điểm số 1 đến điểm số 7
quy định tại khoản 1. Điều này, trừ khi Hai Bên ký kết có thoả thuận khác.
Điều IV
Đường phân định từ điểm số 9 đến
điểm số 21 quy định tại Điều II của Hiệp định này là ranh giới giữa vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước trong Vịnh Bắc Bộ.
Điều V
Đường phân định lãnh hải của hai
nước quy định tại Điều II từ điểm số 1 đến điểm số 7 được thể hiện bằng đường
mầu đen trên bản đồ chuyên đề cửa sông Bắc Luân tỷ lệ 1:10.000 do hai Bên ký
kết cùng nhau thành lập năm 2000. Đường phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh
tế và thềm lục điạ của hai nước từ điểm số 7 đến điểm số 21 được thể hiện bằng
đường mầu đen trên Tổng đồ toàn diện Vịnh Bắc Bộ tỷ lệ 1:500.000 do hai Bên ký
kết cùng nhau thành lập năm 2000. Các đường phân định này đều là đường trắc
địa.
Bản đồ chuyên đề cửa sông Bắc Luân
và Tổng đồ toàn diện Vịnh Bắc Bộ nói trên là bản đồ đính kèm Hiệp định. Các bản
đồ trên sử dụng hệ tọa độ LTRF-96. Các tọa độ địa lý của các điểm quy định tại
Điều II Hiệp định này đều được xác định trên các bản đồ nói trên. Đường phân
định quy định trong Hiệp định này được thể hiện trên các bản đồ kèm theo Hiệp
định chỉ nhằm mục đích minh hoạ.
Điều VI
Hai bên ký kết phải tôn trọng chủ
quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của mỗi Bên đối với lãnh hải, vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ được xác tính theo Hiệp định
này.
Điều VII
Trong trường hợp có các cấu tạo mỏ
dầu, khí tự nhiên đơn nhất hoặc mỏ khoáng sản khác nằm vắt ngang đường phân
định quy định tại Điều II của Hiệp định này, hai Bên ký kết phải thông qua hiệp
thương hữu nghị để đạt được thoả thuận về việc khai thác hữu hiệu nhất các cấu
tạo hoặc mỏ khoáng sản nói trên cũng như việc phân chia công bằng lợi ích thu
được từ việc khai thác.
Điều VIII
Hai Bên ký kết đồng ý tiến hành hiệp
thương về việc sử dụng hợp lý và phát triển bền vững tài nguyên sinh vật ở Vịnh
Bắc Bộ cũng như các công việc hợp tác có liên quan đến bảo tồn, quản lý và sử
dụng tài nguyên sinh vật ở vùng đặc quyền kinh tế hai nước trong Vịnh Bắc Bộ.
Điều IX
Việc phân định lãnh hải, vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa hai nước trong Vịnh Bắc Bộ theo Hiệp định này
không gây bất kỳ ảnh hưởng hoặc phương hại nào đến lập trường của mỗi Bên ký
kết đối với các quy phạm luật pháp quốc tế về luật Biển.
Điều X
Mọi tranh chấp giữa hai Bên ký kết
liên quan đến việc giải thích hoặc thực hiện Hiệp định này phải được giải quyết
thông qua hiệp thương và đàm phán hữu nghị.
Điều XI
Hiệp định này phải được hai Bên ký
kết phê chuẩn và có hiệu lực kể từ ngày trao đổi các văn luận phê chuẩn. Các
văn kiện phê chuẩn được trao đổi tại Hà Nội.
Hiệp định này được ký tại Bắc Kinh,
ngày 25 tháng 12 năm 2000 thành hai bản, mỗi bản bằng tiếng Việt và tiếng
Trung, cả hai văn bản đều có giá trị như nhau.
TUYÊN BỐ
CHUNG VIỆT NAM – TRUNG QUỐC NĂM 2005
Hà Nội, 31 tháng 10 đến ngày 2
tháng 11 năm 2005
1. Nhận lời mời của Tổng
Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh và Chủ
tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Trần Đức Lương, Tổng Bí thư Ban
chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hoà Nhân dân
Trung Hoa Hồ Cẩm Đào đã thăm hữu nghị chính thức Việt Nam từ ngày 31 tháng 10 đến
ngày 2 tháng 11 năm 2005. Trong thời gian thăm, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Hồ
Cẩm Đào đã tiến hành hội đàm với Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch nước Trần
Đức Lương, lần lượt gặp Thủ tướng Phan Văn Khải, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn
An và đã nhận lời mời đến phát biểu tại Quốc hội Việt Nam. Trong không khí thân
mật, hữu nghị, lãnh đạo hai bên đã đi sâu trao đổi và đạt được nhận thức chung
rộng rãi về việc tăng cường và phát triển hơn nữa quan hệ giữa hai Đảng, hai
nước và các vấn đề khu vực, quốc tế cùng quan tâm.
Hai bên cho rằng, chuyến
thăm thành công lần này sẽ đưa quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp tác toàn diện
giữa hai Đảng, hai nước Việt-Trung phát triển lên một tầm cao mới, đồng thời sẽ
có ảnh hưởng tích cực đối với hoà bình, ổn định, phát triển và hợp tác ở khu
vực và thế giới.
2. Hai bên vui mừng trước
những thành tựu mang tính lịch sử mà hai Đảng, hai nước giành được trong việc
tìm tòi con đường phát triển xã hội chủ nghĩa phù hợp với tình hình của mỗi
nước. Phía Trung Quốc chân thành chúc và tin tưởng Đảng Cộng sản Việt Nam và
nhân dân Việt Nam sẽ giành được những thành tựu mới, to lớn hơn nữa trong sự
nghiệp vĩ đại xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Phía Việt Nam tin tưởng vững chắc rằng Đảng Cộng
sản Trung Quốc và nhân dân Trung Quốc nhất định sẽ không ngừng giành được những
thành tựu mới trong sự nghiệp vĩ đại xây dựng xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung
Quốc.
3. Hai bên đã điểm lại và
tổng kết những thành quả to lớn mà quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp tác toàn
diện giữa hai Đảng, hai nước đã giành được trong 55 năm qua kể từ khi hai nước
Việt Nam và Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao, đặc biệt là từ khi bình
thường hóa quan hệ đến nay, nhất trí cho rằng, tôn trọng lẫn nhau, hiểu biết lẫn
nhau, ủng hộ lẫn nhau, tin cậy lẫn nhau và hợp tác cùng nhau là kinh nghiệm
quan trọng để quan hệ hai Đảng, hai nước phát triển ổn định, lành mạnh và thuận
lợi. Tình hữu nghị Việt - Trung là tài sản quý báu của hai Đảng, hai nước và
nhân dân hai nước. Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài,
hướng tới tương lai là phương châm chỉ đạo phát triển quan hệ hai Đảng, hai
nước trong thời kỳ mới. Mãi mãi là láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt,
đối tác tốt là mục tiêu chung của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước.
Hai bên cho rằng, tăng
thêm hữu nghị và tin cậy lẫn nhau, đẩy mạnh hợp tác cùng có lợi, thúc đẩy cùng
phát triển là phù hợp với lợi ích căn bản của hai nước Việt - Trung. Vì vậy,
hai bên quyết tâm xuất phát từ đại cục và tầm cao chiến lược, áp dụng các biện
pháp có hiệu quả, làm sâu sắc và triển khai toàn diện quan hệ hai Đảng, hai
nước, tiếp tục duy trì truyền thống tốt đẹp thăm viếng lẫn nhau ở cấp cao, tăng
cường trao đổi và hợp tác giữa các ngành của Đảng và chính phủ, quốc hội, đoàn
thể quần chúng và địa phương trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, ngoại giao,
quốc phòng, công an, an ninh, văn hóa, giáo dục, đi sâu trao đổi kinh nghiệm về
xây dựng Đảng, quản lý đất nước cũng như lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã
hội, củng cố và làm sâu sắc hơn nữa sự hiểu biết lẫn nhau và tình hữu nghị giữa
nhân dân hai nước, đặt biệt là tăng cường tuyên truyền và giáo dục thanh niên
hai nước về truyền thống hữu nghị Việt-Trung, để tình hữu nghị muôn đời Việt -
Trung thấm sâu vào lòng nhân dân hai nước, thúc đẩy quan hệ giữa hai Đảng, hai
nước không ngừng mở ra cục diện mới.
4. Hai bên hài lòng về sự
phát triển quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước trong những năm gần đây.
Hai bên nhất trí phấn đấu thực hiện trước thời hạn mục tiêu đưa kim ngạch
thương mại hai nước đạt 10 tỷ USD vào năm 2010.
Hai bên bày tỏ mong muốn
thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước phát triển hơn nữa, thực hiện
bổ sung ưu thế cho nhau, hai bên cùng có lợi cùng thắng. Trên tinh thần tích
cực, thực tế, hai bên nhất trí mở rộng hơn nữa quy mô thương mại, đồng thời
cùng có biện pháp thúc đẩy thương mại song phương phát triển cân đối; hai bên
phối hợp chặt chẽ, tích cực thúc đẩy những dự án hợp tác kinh tế lớn giữa hai
nước; cùng khuyến khích và thúc đẩy doanh nghiệp hai nước tiến hành hợp tác lâu
dài, tích cực triển khai đầu tư hai chiều và hợp tác kinh tế cùng có lợi với
nhiều hình thức; tăng cường phối hợp cùng tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp
tác giữa doanh nghiệp hai nước. Hai bên bày tỏ hài lòng trước những tiến triển
đạt được trong việc nghiên cứu về hợp tác kinh tế "hai hành lang, một vành
đai” và hết sức tin tưởng vào triển vọng hợp tác của dự án này.
Hai bên đánh giá cao việc
hai nước hoàn thành thuận lợi đàm phán về mở cửa thị trường liên quan đến việc
Việt Nam gia nhập WTO. Phía Trung Quốc bày tỏ kiên quyết ủng hộ Việt Nam sớm
gia nhập WTO. Hai bên đồng ý tăng cường hợp tác trong các vấn đề kinh tế thương
mại khu vực và quốc tế; cùng nhau thúc đẩy tiến trình xây dựng Khu mậu dịch tự
do ASEAN-Trung Quốc.
Hai bên đã ký kết nhiều
Thỏa thuận hợp tác kinh tế kỹ thuật. Phía Việt Nam cảm ơn sự giúp đỡ và ủng hộ
nhất quán của Trung Quốc đối với công cuộc phát triển kinh tế của Việt Nam.
5. Hai bên cho rằng, công
tác phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền giữa hai nước đã đạt được tiến
triển rõ rệt. Hai bên đồng ý phối hợp chặt chẽ, đẩy nhanh hơn nữa tiến trình
công tác, bảo đảm thực hiện đúng thời hạn mục tiêu hoàn thành công tác phân
giới cắm mốc trên toàn tuyến biên giới và ký văn kiện mới về qui chế quản lý
biên giới chậm nhất vào năm 2008, xây dựng biên giới hai nước trở thành biên
giới hoà bình, hữu nghị và ổn định lâu dài.
Hai bên đánh giá tích cực
tình hình thực hiện Hiệp định phân định và Hiệp định Hợp tác nghề cá Vịnh Bắc
bộ, đồng ý tiếp tục thực hiện nghiêm túc hai Hiệp định này; cùng giữ gìn an
ninh trên biển và trật tự sản xuất nghề cá; tích cực triển khai điều tra liên
hợp nguồn lợi thuỷ sản trong vùng đánh cá chung ở Vịnh Bắc Bộ; khởi động hợp
tác thăm dò khai thác các cấu tạo dầu khí vắt ngang đường phân định; sớm thực hiện việc
tuần tra chung giữa Hải quân hai nước ở Vịnh Bắc Bộ. Hai bên đồng ý sớm bắt đầu
đàm phán về phân định vùng biển ngoài cửa vịnh và trao đổi về vấn đề hợp tác
cùng phát triển ở khu vực này.
Hai bên đánh giá cao “Thỏa
thuận công tác địa chấn biển liên hợp ba bên tại khu vực thỏa thuận ở biển
Đông” do Công ty dầu khí ba nước Việt Nam, Trung Quốc, Philíppin ký tháng 3
năm nay, cho rằng việc ký kết Thỏa thuận này là đóng góp quan trọng thực hiện
“Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC), có ảnh hưởng tích cực đối với việc
thúc đẩy hợp tác cùng phát triển và ổn định tình hình trên biển, tăng cường
tình hữu nghị láng giềng và sự tin cậy lẫn nhau giữa các nước liên quan. Hai
bên đồng ý tích cực ủng hộ các công ty liên quan, bảo đảm thực hiện Thỏa thuận
một cách nghiêm chỉnh, làm cho việc hợp tác sớm đạt được thành quả cụ thể. Hai
bên đồng ý tiếp tục duy trì cơ chế đàm phán về vấn đề trên biển, kiên trì thông
qua đàm phán hoà bình, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều chấp
nhận được; trong quá trình đó, hai bên sẽ nghiên cứu kỹ vấn đề hợp tác cùng
phát triển để tìm được mô hình và khu vực hợp tác cùng phát triển phù hợp với
Luật pháp quốc tế và thực tiễn quốc tế, đặc biệt là "Công ước Luật biển"
năm 1982 của Liên Hợp Quốc và "Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở
Biển Đông” mà hai bên có thể chấp nhận được. Đồng thời, hai bên đồng ý
nghiêm túc tuân thủ nhận thức chung cấp cao, tuân thủ tôn chỉ và nguyên tắc của
"Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông”, cùng giữ gìn ổn
định tình hình biển Đông.
6. Phía Việt Nam khẳng
định kiên trì thực hiện chính sách một nước Trung Quốc, ủng hộ sự nghiệp lớn
thống nhất Trung Quốc, kiên quyết phản đối hành động chia rẽ "Đài Loan độc
lập" dưới mọi hình thức, hoàn toàn hiểu và ủng hộ Đại hội đại biểu Nhân
dân toàn quốc Trung Quốc thông qua "Luật chống chia cắt đất nước",
hoan nghênh xu thế hoà dịu của quan hệ hai bờ trong những năm gần đây. Việt Nam
không phát triển bất kỳ quan hệ chính thức nào với Đài Loan. Phía Trung Quốc
bày tỏ hoan nghênh lập trường trên của phía Việt Nam.
7- Hai bên nhất trí cho
rằng Việt Nam và Trung Quốc có lợi ích chiến lược chung trên nhiều vấn đề quan
trọng. Mong muốn hoà bình, thúc đẩy phát triển và tìm kiếm hợp tác là nhịp điệu
chính của thời đại hiện nay. Hai bên nhấn mạnh cần phải kiên trì chủ nghĩa đa
phương trong các vấn đề quốc tế, thực hiện cùng phồn vinh, phát triển hợp tác
nhiều bên trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau, phản đối chủ nghĩa khủng
bố dưới mọi hình thức.
Hai bên chủ trương tôn
trọng văn hoá lịch sử, chế độ xã hội, mô hình phát triển của các nước cũng như
tính đa dạng của nền văn minh thế giới, thúc đẩy dân chủ hoá quan hệ quốc tế,
cùng nhau xây dựng một khu vực châu Á cũng như thế giới hoà hợp, hoà bình lâu
dài, cùng thịnh vượng.
8- Hai bên hoan nghênh Văn
kiện cuối cùng được thông qua tại Hội nghị cấp cao Đại hội đồng Liên hợp quốc
tháng 9 năm 2005 nhân 60 năm thành lập Liên hợp quốc và cho rằng việc cấp bách
hiện nay là thực hiện Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ, thiết thực giúp đỡ các
nước đang phát triển giải quyết vấn đề phát triển. Hai bên nhất trí cho rằng
cải tổ Liên Hợp quốc cần góp phần nâng cao vai trò, uy tín, hiệu quả và năng
lực của Liên Hợp quốc trong việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, đối phó
với những thách thức và đe doạ mới, thúc đẩy sự phát triển chung của các nước
thành viên, phục vụ cho việc thực hiện các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ.
Hai bên cho rằng việc cải tổ Hội đồng bảo an Liên Hợp quốc cần xuất phát từ lợi
ích lâu dài của Liên Hợp quốc, tuân theo nguyên tắc dân chủ hóa quan hệ quốc tế
và cần tăng thêm tính đại diện của các nước đang phát triển trên cơ sở hiệp
thương rộng rãi, tìm kiếm giải pháp có tính đến lợi ích các bên. Trên tinh thần
đó, hai bên sẽ tiếp tục tăng cường trao đổi ý kiến và hợp tác về vấn đề này.
Hai bên đồng ý tiếp tục
tăng cường hợp tác và phối hợp trong khuôn khổ đa phương tại các diễn đàn Liên
Hợp quốc, Trung Quốc-ASEAN, ASEAN+3, ACD, ARF, APEC, ASEM, GMS. Phía Trung Quốc
khẳng định ủng hộ Việt Nam đăng cai Hội nghị không chính thức các nhà lãnh đạo
APEC lần thứ 14 năm 2006.
9- Tổng Bí thư Ban chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào bày tỏ sự
cảm ơn chân thành đối với sự đón tiếp trọng thị, nhiệt tình và thắm tình hữu
nghị của Đảng Cộng sản, Chính phủ và nhân dân Việt Nam, đồng thời mời Tổng Bí
thư Nông Đức Mạnh và Chủ tịch nước Trần Đức Lương sang thăm Trung Quốc vào thời
gian thuận tiện. Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh và Chủ tịch nước Trần Đức Lương bày
tỏ cảm ơn và vui vẻ nhận lời.
Phía Việt Nam nhắc lại lời
mời Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào dự Hội nghị không chính thức các nhà
lãnh đạo APEC lần thứ 14 tại Hà Nội vào cuối năm 2006. Tổng Bí thư, Chủ tịch
nước Hồ Cẩm Đào đã vui vẻ nhận lời.
TUYÊN BỐ CHUNG
VIỆT NAM – TRUNG QUỐC NĂM 2001
Bắc Kinh 30 tháng 11 đến ngày 4 tháng 12 năm
2001
1. Nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Giang Trạch Dân, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh đã thăm hữu nghị chính thức nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ ngày 30 tháng 11 đến ngày 4 tháng 12 năm 2001.
Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã hội đàm với
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Giang Trạch Dân; lần lượt hội kiến với ủy viên
Thường vụ Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Ủy
viên Trưởng Ủy ban Thường vụ Đại hội Đại biểu Nhân dân toàn quốc nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa Lý Bằng; Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Thủ tướng Quốc vụ viện nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa Chu Dung Cơ; Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Hội nghị Hiệp thương chính
trị nhân dân Trung Quốc Lý Thụy Hoàn; Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Phó Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa Hồ Cẩm Đào. Hai bên đã thông báo cho nhau tình hình mỗi Đảng, mỗi
nước; trao đổi ý kiến sâu rộng về các vấn đề khu vực và quốc tế cùng quan tâm.
Các cuộc hội đàm, hội kiến đã diễn ra trong bầu không khí thân thiết và hữu
nghị.
Hai bên cho rằng, chuyến thăm Trung Quốc
của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh
đã thành công tốt đẹp, chuyến thăm này là một sự kiện trọng đại trong quan hệ
hai Đảng, hai nước vào đầu thế kỷ mới, góp phần quan trọng vào việc tăng cường
và làm sâu sắc thêm quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai
nước Việt Nam - Trung Quốc trong thế kỷ XXI, và sẽ có ảnh hưởng tích cực và sâu
sắc đối với hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực và thế giới.
2. Phía Việt Nam đánh giá cao những thành tựu
lịch sử mà Đảng Cộng sản và nhân dân Trung Quốc đã đạt được trong 80 năm qua, và
tin chắc rằng Đảng Cộng sản và nhân dân Trung Quốc nhất định giành được nhiều
thành tựu mới to lớn hơn nữa trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc
sắc Trung Quốc. Phía Trung
Quốc đánh giá cao những thành tựu lịch sử mà Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam
đã đạt được trong hơn 70 năm qua, và tin chắc rằng Đảng Cộng sản và nhân dân
Việt Nam nhất định giành được những thành tựu mới to lớn hơn nữa trong công
cuộc xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Hai bên quyết tâm, xuất phát từ thực tế của mỗi nước, tiếp
tục tìm tòi và giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn trọng đại trong
việc xây dựng Đảng và Nhà nước, thúc đẩy kinh tế phát triển và xã hội tiến bộ.
3. Hai bên hài lòng chỉ rõ, kể từ khi bình
thường hóa quan hệ hai nước, sự giao lưu và hợp tác trên các lĩnh vực giữa Việt
Nam và Trung Quốc ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu. Hai bên đã ra các
Thông cáo chung năm 1991, 1992, 1994, 1995 và các Tuyên bố chung năm 1999 và
2000, lần lượt ký Hiệp ước biên giới trên đất liền, Hiệp định phân định Vịnh
Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ. Hai Đảng, hai nước đã trao
đổi rộng rãi và sâu sắc về những kinh nghiệm đổi mới, cải cách mở cửa, xây dựng
Đảng và quản lý Nhà nước, lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Sự hợp tác
kinh tế và thương mại giữa hai nước đã nâng lên một tầm cao mới. Hai Đảng,
Chính phủ và nhân dân hai nước vui mừng trước sự phát triển tốt đẹp và quan
trọng của quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện Việt Nam - Trung Quốc.
4. Hai bên cho rằng, tình hữu nghị Việt -
Trung là tài sản chung quý báu của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước;
không ngừng tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai
nước Việt Nam - Trung Quốc trong thế kỷ mới không những phù hợp với lợi ích căn
bản của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước, mà còn có lợi cho hòa bình, ổn
định, hợp tác và phát triển trong khu vực và trên thế giới. Hai bên quyết tâm
kiên trì phương châm chỉ đạo 16 chữ "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn
diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai", quán triệt và thực hiện
một cách toàn diện mục tiêu và nhiệm vụ đã được nêu rõ trong bản Tuyên bố chung
về hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới giữa hai nước, không ngừng nâng tầm cao
và chất lượng của quan hệ hữu nghị và hợp tác truyền thống Việt - Trung, làm
cho hai nước và nhân dân hai nước Việt Nam - Trung Quốc đời đời hữu nghị.
5. Nhằm tăng cường và phát triển hơn nữa
quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai nước Việt Nam - Trung
Quốc trong thế kỷ mới, hai bên nhất trí tiếp tục duy trì truyền thống tốt đẹp
giao lưu cấp cao giữa hai Đảng, hai nước; thúc đẩy sự giao lưu và hợp tác, nâng
cao hiệu quả hợp tác giữa các ban ngành Đảng, Chính quyền, Quốc hội, các đoàn
thể nhân dân và các địa phương, trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa,
giáo dục... giữa hai nước; tăng cường việc trao đổi kinh nghiệm về xây dựng
Đảng, quản lý Nhà nước giữa hai bên; tham khảo lẫn nhau về kinh nghiệm đổi mới,
cải cách mở cửa và xây dựng Đảng; tăng cường sự giao lưu hữu nghị với hình thức
đa dạng và nội dung phong phú giữa thanh, thiếu niên hai nước, làm cho mối tình
hữu nghị truyền thống đã được các bậc tiền bối cách mạng hai nước dày công vun
đắp cũng như sự nghiệp hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa hai nước truyền tiếp
cho các thế hệ mai sau.
6. Hai bên xác định trong thế kỷ mới cần
tiếp tục tăng cường và mở rộng hợp tác kinh tế, thương mại, khoa học-kỹ thuật
và các lĩnh vực khác giữa hai nước theo phương châm bình đẳng, cùng có lợi, chú
trọng hiệu quả, bổ sung ưu thế cho nhau, hình thức đa dạng, cùng nhau phát
triển; tích cực khuyến khích và ủng hộ các doanh nghiệp hai bên khai thác thêm
thị trường hàng hóa của hai nước, tăng cường đầu tư và hợp tác, mở rộng quy mô
hợp tác kinh tế và kỹ thuật, thực hiện các dự án hợp tác đem lại hiệu quả kinh
tế và xã hội thiết thực.
Nhân dịp này, hai bên đã ký Hiệp định
khung giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về việc Trung Quốc cung cấp cho Việt Nam khoản tín
dụng ưu đãi và Hiệp định hợp tác kinh tế kỹ thuật giữa Chính phủ nước Cộng hòa
xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa; và
nhất trí sẽ tích cực thúc đẩy các doanh nghiệp hợp tác lâu dài trên dự án bôxít
nhôm Đắc Nông.
Việt Nam nhiệt liệt chúc mừng Trung Quốc
trở thành thành viên Tổ chức Thương mại thế giới. Trung Quốc tích cực ủng hộ
Việt Nam sớm gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới.
7. Hai bên nhất trí cho rằng, việc hai
nước ký Hiệp định biên giới trên đất liền, Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và
Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ là sự kiện có ý nghĩa trọng đại, góp
phần tích cực vào việc thúc đẩy phát triển hơn nữa quan hệ láng giềng hữu nghị
và hợp tác toàn diện giữa hai nước và sự ổn định của khu vực.
Hai bên đồng ý tuân theo nhận thức chung
của các nhà lãnh đạo hai nước, nhanh chóng hoàn thành các công việc đàm phán
tiếp theo có liên quan đến Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ, để Hiệp
định phân định Vịnh Bắc Bộ cùng với Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ sớm
có hiệu lực, tích cực thúc đẩy và tăng nhanh tiến trình công tác phân giới cắm
mốc biên giới trên đất liền, xây dựng biên giới hai nước thành biên giới hòa
bình, hữu nghị, ổn định lâu dài.
Hai bên đồng ý tiếp tục duy trì cơ chế đàm
phán hiện có về vấn đề trên biển, kiên trì thông qua đàm phán hòa bình để tìm
ra một giải pháp cơ bản, lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được. Trước
khi vấn đề được giải quyết, với tinh thần dễ trước khó sau, hai bên tích cực
tìm kiếm khả năng và biện pháp triển khai hợp tác trên biển trong các lĩnh vực
như: bảo vệ môi trường biển, khí tượng thủy văn, phòng chống thiên tai. Đồng
thời, hai bên đều không tiến hành các hành động làm phức tạp thêm hoặc mở rộng
tranh chấp, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực đối với những bất
đồng nảy sinh, cần bàn bạc kịp thời và giải quyết thỏa đáng với thái độ bình
tĩnh, xây dựng không để bất đồng ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của
quan hệ hai nước.
8. Phía Việt Nam khẳng định Việt Nam công
nhận Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là chính phủ hợp pháp duy nhất
đại diện cho toàn Trung Quốc. Đài Loan là một bộ phận lãnh thổ không thể chia
cắt của Trung Quốc. Việt Nam chỉ giao lưu về kinh tế, thương mại phi chính phủ
với Đài Loan, không phát triển quan hệ chính phủ với Đài Loan. Phía Trung Quốc
tỏ sự hiểu biết và hoan nghênh lập trường trên đây của phía Việt Nam. Phía
Trung Quốc khẳng định vấn đề Đài Loan hoàn toàn là vấn đề thuộc công việc nội
bộ của Trung Quốc và kiên quyết phản đối các nước đã lập quan hệ ngoại giao với
Trung Quốc có quan hệ chính phủ dưới bất cứ hình thức nào, hoặc có bất cứ sự đi
lại nào mang tính chính phủ với Đài Loan.
9. Hai bên hài lòng với những nhận thức
chung rộng rãi về các vấn đề khu vực và quốc tế mà hai bên cùng quan tâm. Hai
bên cho rằng hòa bình, hợp tác, phát triển và tiến bộ xã hội đã trở thành trào
lưu của thời đại hiện nay. Hai nước và nhân dân hai nước Việt Nam - Trung Quốc
tha thiết mong muốn thế giới hòa bình bền vững, cuộc sống yên ổn lâu dài; tha
thiết mong muốn xây dựng một trật tự quốc tế mới công bằng và hợp lý, thúc đẩy
các nước cùng phồn vinh và phát triển. Hai bên phản đối chủ nghĩa bá quyền và
chính trị cường quyền trong công việc quốc tế; phản đối chủ nghĩa khủng bố dưới
mọi hình thức. Hai bên chủ trương tôn trọng lịch sử văn hóa, chế độ xã hội, mô
hình phát triển của các nước và các nền văn minh trên thế giới.
Hai bên đánh giá cao vai trò tích cực của
tổ chức ASEAN trong việc giữ gìn và thúc đẩy sự ổn định và phát triển của khu
vực, khẳng định lại sẽ tiếp tục góp sức tăng cường quan hệ đối tác láng giềng
tin cậy giữa Trung Quốc và các nước ASEAN, nỗ lực và đóng góp tích cực vào sự
ổn định và phồn vinh lâu dài của Châu Á, đặc biệt là khu vực Đông Á.
10. Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh chân thành cảm ơn sự đón tiếp trọng thể,
nồng nhiệt và hữu nghị của Đảng Cộng sản, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc.
Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh mời Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Giang Trạch Dân thăm
hữu nghị chính thức Việt Nam vào thời gian thuận tiện trong năm tới. Tổng Bí
thư, Chủ tịch nước Giang Trạch Dân đã cảm ơn và vui vẻ nhận lời.
Hà Nội, ngày 30 tháng 01 năm 2001
Nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và nước Cộng hoà nhân dân Trung hoa (dưới đây gọi tắt là "hai
bên") là
hai nước láng giềng Xã hội Chủ nghĩa có quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời. Trong
50 năm qua kể từ ngày thiết lập quan hệ ngoại giao, quan hệ Việt – Trung đã
không ngừng củng cố và phát triển.
Từ khi bình thường hoá quan hệ hai
nước năm 1991, trên cơ sở những nguyên tắc được ghi nhận trong các "Thông
cáo chung" năm 1991, năm 1992, năm 1994, năm 1995 và "Tuyên bố
chung" năm 1999 nhân các cuộc gặp giữa các lãnh đạocấp cao hai nước, quan
hệ hữu nghị truyền thống, tin cậy lẫn nhau, bình đẳng, cùng có lợi giữa hai
nước đã phát triển nhanh chóng trên tất cả các lĩnh vực, giao lưu giữa các
ngành, các cấp diễn ra thường xuyên.
Tháng 2 năm 1999, Tổng Bí thư hai
Đảng đã xác định phương châm 16 chữ phát triển quan hệ hai nước trong thế kỷ 21 là "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn
diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai". Điều này phù
hợp với lợi ích căn bản của nhân dân hai nước, có lợi ích cho hoà bình, ổn định
và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
Hai bên khẳng định lại, tiếp tục căn
cứ theo tôn chỉ và nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc, 5 nguyên tắc cùng
tồn tại hoà bình và các quan hệ quốc tế đã được thừa nhận, thúc đẩy quạn hệ
giữa hai nước phát triển toàn diện. Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản
Trung Quốc tiếp tục phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị trên cơ sở các nguyên
tắc: độc lập tự chủ, hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau.
Để thực hiện có hiệu quả phương châm
chỉ đạo 16 chữ, không ngừng thúc đẩy quan hệ hai nước bước sang một giai đoạn
phát triển mới trong thế kỷ 21, hai bên đồng ý tăng cường và mở rộng hợp tác
trong các lĩnh vực sau:
I.- Duy trì gặp gỡ cấp cao thường
xuyên, tạo thêm động lực mới thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển; tăng cường
hơn nữa tiếp xúc hữu nghị và giao lưu hợp tác dưới nhiều hình thức giữa các ban
ngành, các tổ chức quần chúng và các địa phương của hai nước.
II.- Tăng cường công tác
tuyên truyền, giáo dục đối với thế hệ trẻ hai nước về truyền thống hữu nghị; triển khai trao đổi, giao lưu hữu
nghị giữa thanh thiếu niên hai nước, góp phần tăng cường sự tin cậy và tình hữu
nghị giữa nhân dân hai nước, làm cho tình hữu nghị, sự tin cậy và hợp tác giữa
nhân dân hai nước được kế tục và không ngừng phát triển.
III.- Trên cơ sở nguyên tắc bình
đẳng, cùng có lợi, coi trọng hiệu quả thực tế, bổ sung ưu thế cho nhau, hình
thức đa dạng, cùng nhau phát triển, tiếp tục tăng cường và mở rộng hợp tác
trong các lĩnh vực kinh tế thương mại và khoa học kỹ thuật giữa hai nước. Vì
vậy, hai bên đồng ý cùng nỗ lực hỗ trợ trong các lĩnh vực sau:
1. Phát huy đầy đủ vai trò của Uỷ
ban liên Chính phủ về hợp tác kinh tế thương mại trong việc tăng cường quan hệ
kinh tế thương mại và hợp tác đầu tư giữa hai nước. Thông qua nhiều hình thức
đa dạng như phát huy hơn nữa vai trò chủ đạo của các công ty lớn, mở rộng buôn
bán hàng hoá khối lượng lớn, khuyến khích và ủng hộ các doanh nghiệp hai bên
triển khai các dự án hợp tác lớn, mở rộng hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư
giữa hai bên. Tạo dựng môi trường kinh doanh tốt đẹp, không ngừng khai thác
tiềm năng, đảm bảo mậu dịch giữa hai bên tăng trưởng ổn định liên tục; duy trì
chính sách đầu tư ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư giữa các
doanh nghiệp của hai bên; tích cực quán triệt thực hiện "hiệp định về mua
bán hàng hoá ở vùng biên giới", tăng cường phối hợp trong công tác quản
lý, quy phạm hoá buôn bán biên giới giữa hai nước.
2. Phát huy vai trò điều tiết và chỉ
đạo vĩ mô của Uỷ ban liên chính phủ về hợp tác khoa học kỹ thuật, thúc đẩy hợp
tác và trao đổi về khoa học kỹ thuật, hướng dẫn và khuyến khích các cơ quan hữu
quan của chính phủ, các cơ sở và viện nghiên cứu khoa học, các trường đại học,
các xí nghiệp phục vụ khoa học kỹ thuật của hai nước phát triển rộng rãi hợp
tác khoa học kỹ thuật trong các lĩnh vực như thông tin, sinh học, nông nghiệp,
khí tượng, hải dương, bảo vệ môi trường, sử dụng năng lượng nguyên tử vào mục
đích hoà bình và các lĩnh vực mà hai bên cùng quan tâm.
3. Tích cực thúc đẩy hợp tác cùng có
lợi giữa hai nước về nông, lâm, ngư nghiệp, khuyến khích và ủng hộ các xí
nghiệp và các cơ quan hữu quan của hai nước tăng cường trao đổi và hợp tác trên
các mặt như tạo ra các giống cây trồng nông nghiệp, giống gia súc gia cầm tốt,
chế biến sản phẩm nông, lâm nghiệp, chế tạo máy móc công nghiệp, đánh bắt trên
biển, nuôi trồng thuỷ sản.
4. Tăng cường trao đổi và hợp tác
trog lĩnh vực tài chính, tiền tệ và điều tiết kinh tế vĩ mô.
5. Tăng cường hợp tác trên lĩnh
vựcgiao thông vận tải, cùng nhau phát triển vận chuyển hành khách, hàng hoá qua
tuyến đường sắt quốc tế giữa hai nước, mở rộng đường sắt liên vận quốc tế đến
nước thứ 3, thúc đẩy ttrao đổi nhân viên và hàng hoá.
6. Khuyến khích ngành bưu điện hai
nước tăng cường trao đổi và hợp tác trên các mặt hiện đại hoá mạng lưới bưu
chính, viễn thông, ứng dụng kỹ thuật mới, khai thác nghiệp vụ mới.
7. Mở rộng hợp tác du lịch, khuyến
khích nghành du lịch giữa hai nước tăng cường hợp tác, trao đổi kinh nghiệm
trên các mặt như quản lý, quảng cáo tiếp thị, đào tạo nguồn nhân lực mới và tạo
thuận lợi cho công nhân hai nước và công dân nước thứ ba đi du lịch hai nước.
8. Tăng cường trao đổi hợp tác thông
tin trên các lĩnh vực như bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai và khí tượng
thuỷ văn; cùng nỗ lực hợp tác và khai thác khu vực sông Mê Công.
9. Mở rộng hợp tác, trao đổi kinh
nghiệm trên các mặt như qui hoạch, xây dựng, quản lý, phát triển đô thị và đào
tạo nguồn nhân lực.
IV. Hai bên tiếp tục tăng cường hợp
tác, phối hợp giữa hai bên tại các diễn đàn đa phương quốc tế và khu vực như
Liên Hợp quốc, ARF, Hợp tác Đông á, ASEM, APEC, thúc đẩy sự đoàn kết và hợp tác
giữa các nước đang phát triển, tiếp tục ra sức xây dựng trật tự chính trị, kinh
tế quốc tế mới công bằng, hợp lý, có đóng góp mới cho việc bảo vệ hoà bình, ổn
định và phát triển ở khu vực và tên thế giới.
Hai bên đánh giá cao vai trò tích
cực của tổ chức ASEAN đối với sự ổn định và phát triển của khu vực, khẳng định
lại sẽ tiếp tục dốc sức tăng cường quan hệ láng giềng, đối tác tin cậy giữa các
nước ASEAN với Trung Quốc, nỗ lực tích cực vì ổn định và phồn vinh lâu dài của
Châu á, đặc biệt là khu vực Đông á.
Tiếp tục tăng cường cơ chế trao đổi
ý kiến hàng năm giữa quan chức cấp cao Bộ ngoại giao hai nước, trao đổi ý kiến
về những vấn đề song phương, khu vực và quốc tế mà hai bên cùng quan tâm.
V. Thông qua việc triển khai qua lại
quân sự ở các cấp và các lĩnh vực khác nhau, tăng cường sự hiểu biết và tin cậy
lẫn nhau, thắt chặt hơn nữa mối quan hệ giữa các cơ quan quốc phòng và quân đội
hai nước, mở rộng trao đổi và hợp tác trong lĩnh vực an ninh.
VI. Tăng cường trao đổi và hợp tác
về văn hoá, thể dục thể thao, và các phương tiện thông tin đại chúng, bao gồm
tăng cường thăm lẫn nhau, trao đổi kinh nghiệm, triển khai đào tạo nhân lực...
VII. Mở rộng hợp tác trong lĩnh vực
giáo dục đào tạo, bao gồm trao đổi lưu học sinh, cán bộ giảng dạy, khuyến khích
và ủng hộ các trường đại học, các ngành giáo dục và các cơ sở nghiên cứu của
hai bên tăng cường hợp tác trực tiếp.
VIII. Tăng cường hợp tác trong các
mặt phòng chống các loại tội phạm xuyên quốc gia cũng như trao đổi và hợp tác
giữa các cơ quan tư pháp, công an, toà án, viện kiểm sát của hai bên, tăng
cường trao đổi kinh nghiệm giữa các cơ quan kỷ luật, kiểm sát, giám sát của hai
bên về chống tham nhũng đề cao liêm khiết .
IX. Hai bên nhất trí cho rằng, việc
hai nước ký kết " Hiệp ước biên giới trên đất liền
giữa nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà Nhân dân Trung
Hoa", "Hiệp định phân định lãnh hải,
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ giữa nước Cộng hoà Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa", "Hiệp
định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ giữa Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa" có ý nghĩa lịch sử sâu rộng,
sẽ thúc đẩy hơn nữa quan hệ láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện giữa hai
nước phát triển mạnh hơn nữa trong thế kỷ 21. Hai bên cam kết sẽ nghiêm chỉnh
thực hiện các thoả thuận liên quan đã ký kết giữa hai nước, tích cực hợp tác,
nỗ lực xây dựng biên giới hai nước thành biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định
lâu dài.
Hai bên khẳng định, tiếp tục duy trì
cơ chế đàm phán hiện có về vấn đề trên biển, kiên trì thông qua đàm phán hoà
bình để tìm ra một giải pháp cơ bản, lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận
được. Trước khi vấn đề được giải quyết, với tinh thần dễ trước khó sau, hai bên
tích cực bàn bạc, tìm kiếm khả năng và giải pháp triển khai hợp tác trên biển
trong các lĩnh vực như: bảo vệ môi trường biển, khí tượng thuỷ văn, phòng chống
thiên tai. Đồng thời, hai bên đều không tiến hành các hành động làm phức tạp
thêm hoặc mở rộng tranh chấp, không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực.
Hai bên cần bàn bạc kịp thời và giải quyết những bất đồng nảy sinh với thái độ
bình tĩnh xây dựng, không để bất đồng ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường
của quan hệ hai nước.
X. Hai bên khẳng định lại những nhận
thức chung đã đạt được trong các Thông cáo chung Việt Nam – Trung Quốc
10/11/1991, 22/11/1994, 2/12/1995 và tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc
27/2/1999: phía Việt Nam khẳng định một nước Trung Quốc, Việt Nam công nhận
Chính phủ nước Cộng hoà Nhân Dân Trung Hoa là Chính phủ hợp pháp duy nhất đại
diện cho toàn Trung Quốc; Đài Loan là một bộ phận lãnh thổ không thể chia cắt
của Trung Quốc. Việt Nam chỉ giao lưu về kinh tế, thương mại phi chính phủ với
Đài Loan, không phát triển quan hệ chính phủ với Đài Loan. Phía Trung Quốc tỏ
sự hiểu biết và hoan nghênh lập trường trên đây của phía Việt Nam. Phía Trung
Quốc khẳng định vấn đề Đài Loan hoàn toàn là vấn đề thuộc công việc nội bộ của
Trung Quốc và kiên quyết phản đối các nước đã lập quan hệ ngoại giao với Trung
Quốc có quan hệ chính phủ dưới bất cứ hình thức nào, hoặc có bất cứ sự đi lại
nào mang tính Chính phủ với Đài Loan.
Tuyên bố chung được ký tại Bắc Kinh,
ngày 25 tháng 12 năm 2000 thành hai bản, mỗi bản bằng tiếng Việt và tiếng
Trung, cả hai văn bản đều có giá trị như nhau.
ĐẠI DIỆN
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM BỘ TRƯỞNG BỘ NGOẠI GIAO Nguyễn Dy Niên |
ĐẠI DIỆN
NƯỚC CỘNG HOÀ NHÂN DÂN TRUNG HOA BỘ TRƯỞNG BỘ NGOẠI GIAO Đường Gia Triền |
|
BỘ NGOẠI
GIAO
------- |
SAO Y BẢN
CHÍNH
(Để thực hiện) |
|
Số:
02/LPQT
|
Hà Nội,
ngày 30 tháng 01 năm 2001
|
|
Bắc Kinh, ngày 27 tháng 2 năm 1999
1. Nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung
Hoa Giang Trạch Dân, Tổng Bí thư Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Lê Khả Phiêu đã thăm hữu nghị chính
thức nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa từ ngày 25-2 đến ngày 2-3-1999.
Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam Lê Khả Phiêu đã tiến hành hội đàm với Tổng Bí thư Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung
Hoa Giang Trạch Dân. Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã lần lượt hội kiến với Uỷ viên
Thường vụ Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Uỷ
viên trưởng Uỷ ban Thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc nước Cộng hoà
nhân dân Trung Hoa Lý Bằng; Uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch Hội nghị Hiệp thương chính trị nhân dân
toàn quốc nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa Lý Thuỵ Hoàn; Uỷ viên Thường vụ Bộ
Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Phó Chủ tịch nước
Cộng hoà nhân dân Trung Hoa Hồ Cẩm Đào và Uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Phó Thủ tướng Quốc Vụ viện nước
Cộng hoà nhân dân Trung Hoa Lý Lam Thanh. Hai bên đã thông báo cho nhau về tình
hình chính trị, kinh tế của mỗi nước; trao đổi ý kiến rộng rãi về việc củng cố
và tăng cường hơn nữa quan hệ hữu nghị hợp tác giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước, cũng
như về các vấn đề khu vực và quốc tế cùng quan tâm. Các cuộc hội đàm và hội
kiến đã diễn ra trong bầu không khí thân mật, hữu nghị, chân thành, thẳng thắn,
tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau.
Hai bên cho rằng chuyến thăm Trung Quốc
của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Lê Khả Phiêu đã
thành công tốt đẹp, góp phần quan trọng xây dựng quan hệ hữu nghị hợp tác giữa
hai Đảng, hai nước hướng tới thế kỷ XXI, và sẽ có ảnh hưởng tích cực đối với
hoà bình, ổn định và phát triển của khu vực.
2. Hai bên bày tỏ hài lòng về sự củng cố
không ngừng và phát triển tích cực của quan hệ hữu nghị hợp
tác giữa hai Đảng, hai nước. Điều đó không
những phù hợp với lợi ích căn bản của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước
mà còn có lợi cho hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực và thế
giới. Hai bên thoả thuận, trên cơ sở tiếp tục tuân thủ các nguyên tắc được xác
định trong các thông cáo chung công bố từ khi bình thường hoá quan hệ Việt Nam
- Trung Quốc đến nay và nhận thức chung đạt được giữa lãnh đạo hai Đảng, hai
nước, xây dựng quan hệ Việt Nam - Trung Quốc láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn
diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai. Hai bên khẳng định trên cơ sở
nguyên tắc độc lập, tự chủ, hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau, Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản
Trung Quốc sẽ tiếp tục không ngừng phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác, thúc
đẩy quan hệ Nhà nước phát triển toàn diện.
Hai bên xác định cần hướng tầm nhìn tới
tương lai, tăng cường hơn nữa giao lưu hữu nghị, hợp tác và trao đổi kinh
nghiệm bằng nhiều hình thức giữa các ban, ngành của Đảng, chính quyền, các tổ
chức quần chúng và các địa phương hai nước, nhất là tăng cường trao đổi, giao
lưu hữu nghị giữa thanh niên, thiếu niên hai nước, làm cho sự nghiệp hữu nghị
của hai nước Việt Nam - Trung Quốc phát triển toàn diện, truyền tiếp cho các
thế hệ mai sau.
3. Hai bên khẳng định các thoả thuận và
nhận thức chung đã đạt được trong các cuộc gặp gỡ cấp cao hai nước từ năm 1991
đến nay, nhất trí cho rằng sớm giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa hai
nước là phù hợp với lợi ích căn bản và nguyện vọng chung của nhân dân hai nước;
đồng thời bày tỏ hài lòng về những tiến triển tích cực của các cuộc đàm phán
hai nước trong những năm gần đây. Hai bên đồng ý tiếp tục với tinh thần lấy đại
cục làm trọng, thông cảm và nhân nhượng lẫn nhau, công bằng hợp lý, hiệp thương
hữu nghị và căn cứ vào luật pháp quốc tế, tham khảo thực tiễn quốc tế, thông
qua đàm phán hoà bình, giải quyết thoả đáng những vấn đề biên giới lãnh thổ tồn
tại giữa hai nước.
Hai bên quyết tâm đẩy nhanh tiến trình đàm
phán, nâng cao hiệu suất công tác, ký kết Hiệp ước về biên giới trên bộ trong
năm 1999; giải quyết xong vấn đề phân định Vịnh Bắc bộ trong năm 2000; cùng
nhau xây dựng đường biên giới hai nước trở thành đường biên giới hoà bình, hữu
nghị, ổn định.
Hai bên đồng ý tiếp tục duy trì cơ chế đàm
phán hiện có về vấn đề trên biển, kiên trì thông qua đàm phán hoà bình, tìm ra
một giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được. Trước khi
vấn đề được giải quyết, với tinh thần dễ trước khó sau, hai bên tích cực bàn
bạc, tìm kiếm khả năng và giải pháp triển khai hợp tác trên biển trong các lĩnh
vực như: bảo vệ môi trường biển, khí tượng thuỷ văn, phòng chống thiên tai.
Đồng thời, hai bên đều không tiến hành các hành động làm phức tạp thêm hoặc mở
rộng thêm tranh chấp, không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực. Hai bên
cần bàn bạc kịp thời và giải quyết thoả đáng những bất đồng nảy sinh với thái
độ bình tĩnh, không để bất đồng ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của
quan hệ hai nước.
4. Hai bên bày tỏ hài lòng trước những
tiến triển về mở rộng giao lưu buôn bán, phát triển kinh tế, hợp tác khoa học
kỹ thuật và các lĩnh vực khác giữa hai nước trong những năm gần đây. Hai bên
cho rằng việc mở rộng hơn nữa hợp tác kinh tế, thương mại, khoa học - kỹ thuật
và các lĩnh vực khác giữa hai nước còn nhiều tiềm lực to lớn, triển vọng sáng
sủa. Trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, chú trọng hiệu quả và chất lượng,
hình thức đa dạng, cùng nhau phát triển, hai bên quyết tâm cùng nỗ lực phát huy
hơn nữa vai trò chủ đạo của các công ty lớn, mở rộng mậu dịch với khối lượng và
kim ngạch lớn, khuyến khích và ủng hộ các doanh nghiệp của hai bên triển khai
hợp tác các dự án lớn, tạo điều kiện thuận lợi để họ đầu tư lẫn nhau; thúc đẩy
mậu dịch biên giới hai nước phát triển lành mạnh, có trật tự. Hai bên sẽ tích
cực tìm kiếm con đường và biện pháp mới nhằm phát triển cả về chiều rộng và
chiều sâu sự hợp tác kinh tế, thương mại, khoa học kỹ thuật và các lĩnh vực
khác; đưa quan hệ hợp tác đó lên một trình độ phát triển mới.
Hai bên đã ký Hiệp định hợp tác kinh tế -
kỹ thuật giữa Chính phủ hai nước.
5. Hai bên khẳng định lại những nhận thức
chung đã đạt được trong các Thông cáo chung Việt Nam - Trung Quốc ngày 10 tháng
11 năm 1991, ngày 22 tháng 11 năm 1994 và ngày 2 tháng 12 năm 1995; phía Việt
Nam khẳng định, Việt Nam công nhận Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa
là Chính phủ hợp pháp duy nhất đại diện cho toàn Trung Quốc; Đài Loan là một bộ
phận lãnh thổ không thể chia cắt của Trung Quốc. Việt Nam chỉ giao lưu về kinh
tế, thương mại phi chính phủ với Đài Loan, không phát triển quan hệ chính phủ
với Đài Loan. Phía Trung Quốc tỏ sự hiểu biết và hoan nghênh lập trường trên
đây của phía Việt Nam. Phía Trung Quốc khẳng định vấn đề Đài Loan hoàn toàn là
vấn đề thuộc công việc nội bộ của Trung Quốc và kiên quyết phản đối các nước đã
lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc có quan hệ chính phủ dưới bất cứ hình thức
nào, hoặc có bất cứ sự đi lại nào mang tính chính phủ với Đài Loan.
6. Hai bên vui mừng trước những thành tựu
to lớn đã đạt được trong công cuộc đổi mới, mở cửa, xây dựng chủ nghĩa xã hội
và cải thiện đời sống nhân dân ở hai nước. Phía Trung Quốc đánh giá cao những
thành tựu mà Việt Nam đã đạt được trong công cuộc đổi mới, mở rộng hợp tác quốc
tế vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Phía Việt Nam đánh giá
cao những thành tựu mà Trung Quốc đã đạt được trong công cuộc cải cách mở cửa,
mở rộng quan hệ đối ngoại, cũng như trong sự nghiệp giữ gìn và thực hiện thống
nhất đất nước.
7. Hai bên hài lòng với những nhận thức
chung rộng rãi về các vấn đề khu vực và quốc tế mà hai bên cùng quan tâm. Hai
bên cho rằng giữ gìn và củng cố hoà bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới,
tăng cường hợp tác kinh tế song phương, đa phương và khu vực là phù hợp với
nguyện vọng chung và lợi ích căn bản của nhân dân các nước trong khu vực và
trên thế giới. Hai bên chủ trương phấn đấu vì một trật tự chính trị, kinh tế quốc
tế mới công bằng, hợp lý và sẽ thiết thực đóng góp phần mình vào việc giữ gìn
và củng cố hoà bình, ổn định và phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Hai bên cho rằng cuộc khủng hoảng tài
chính - tiền tệ ở châu Á đã tác động về mặt kinh tế ở những mức độ khác nhau
tại nhiều quốc gia châu Á; các nước hữu quan cần cùng nhau gánh vác trách
nhiệm, tăng cường phối hợp và hợp tác nhằm khắc phục cuộc khủng hoảng. Phía
Trung Quốc đánh giá cao những nỗ lực tích cực của Việt Nam nhằm ngăn chặn ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở châu Á, bảo đảm cho nền kinh
tế của đất nước tiếp tục phát triển. Phía Việt Nam đánh giá cao những đóng góp
của Trung Quốc nhằm làm dịu cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở châu Á và ổn
định kinh tế khu vực.
8. Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam Lê Khả Phiêu chân thành cảm ơn về sự đón tiếp trọng thể,
nồng nhiệt và hữu nghị của Đảng Cộng sản, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc.
Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã mời Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa Giang Trạch Dân sang
thăm Việt Nam một lần nữa vào thời gian thuận tiện. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước
Giang Trạch Dân đã cảm ơn và vui vẻ nhận lời.
BỘ CÔNG THƯƠNG
------- |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc --------------- |
Số: 805/QĐ-BCT
|
Hà Nội, ngày 23 tháng 01 năm 2014
|
QUYẾT ĐỊNH
PHÊ DUYỆT QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP,
THƯƠNG MẠI TUYẾN BIÊN GIỚI VIỆT - TRUNG ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
BỘ TRƯỞNG BỘ CÔNG THƯƠNG
Căn cứ Nghị
định số 95/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2012 của Chính phủ quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công Thương;
Căn cứ Nghị
định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ về lập, phê duyệt
và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội và Nghị định số
04/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 01 năm 2008 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07 tháng 9 năm 2006 của Chính
phủ về lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã
hội;
Theo đề nghị
của Vụ trưởng Vụ Kế hoạch,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát
triển công nghiệp, thương mại tuyến biên giới Việt - Trung đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2030 với những nội dung chủ yếu như sau:
1. Quan điểm
phát triển
a) Phát
triển công nghiệp, thương mại tuyến biên giới Việt - Trung với cơ cấu hợp lý,
tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả trên cơ sở phát huy những lợi thế
về vị trí địa lý, tài nguyên và hệ thống cửa khẩu;
b) Liên kết
và tăng cường hợp tác trong mọi lĩnh vực nhằm thúc đẩy công nghiệp, thương mại
phát triển trên toàn tuyến biên giới Việt - Trung;
c) Phát
triển công nghiệp, thương mại nhằm góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của các địa phương trên tuyến. Đồng thời góp phần xóa đói giảm nghèo, giải
quyết công ăn việc làm và các vấn đề xã hội;
d) Kết hợp
chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp, thương mại với bảo tồn bản sắc văn hóa
dân tộc, khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên, đảm bảo quốc phòng, an ninh,
khu vực phòng thủ và bảo vệ môi trường.
2. Mục tiêu phát triển
a) Tăng
trưởng bình quân giá trị sản xuất công nghiệp giai đoạn 2011 - 2020 đạt khoảng
16,5 - 17,5%/năm; trong đó giai đoạn 2016-2020 khoảng 16% - 17%/năm; tỷ trọng
GDP công nghiệp - xây dựng chiếm khoảng 26 - 32% trong cơ cấu GDP;
b) Tốc độ
tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ giai đoạn 2011-2020
đạt khoảng 19,5 - 20,5%/năm; trong đó giai đoạn 2016-2020 khoảng 17,5-18%; tốc
độ tăng trưởng bình quân xuất nhập khẩu biên mậu giai đoạn 2011-2020 đạt khoảng
18-19%/năm.
3. Định hướng phát triển
3.1. Ngành
công nghiệp
a) Tập trung
đầu tư vào các lĩnh vực có tiềm năng như: công nghiệp khai thác và chế biến
khoáng sản trên cơ sở khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên, công nghiệp cơ
khí, công nghiệp chế biến nông, lâm sản, thực phẩm, công nghiệp sản xuất vật
liệu xây dựng, thủy điện...;
b) Tăng
cường mối liên kết vùng nhằm phát triển một số dự án quy mô lớn trong lĩnh vực
chế biến khoáng sản, chế biến lâm sản và cơ khí chế tạo;
c) Phát
triển tiểu thủ công nghiệp, làng nghề và từng bước khôi phục lại một số làng
nghề góp phần vào sản xuất hàng hóa phục vụ nhu cầu tại chỗ, giải quyết việc
làm và phục vụ du lịch.
3.2. Ngành
thương mại
a) Phát
triển các loại hình thương mại hiện đại tại các khu vực đô thị kết hợp với các
loại hình thương mại truyền thống (chợ, đại lý bán buôn, bán lẻ, cửa hàng bán
lẻ...), mạng lưới kinh doanh xăng dầu; gắn phát triển hoạt động thương mại biên
giới với phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa của các tỉnh biên
giới;
b) Tăng
cường đầu tư xây dựng hạ tầng các khu kinh tế cửa khẩu, hạ tầng thương mại phục
vụ cho xuất nhập khẩu hàng hóa. Đặc biệt chú trọng phát triển hệ thống
logistics và hệ thống kho bãi phục vụ cho các hoạt động thương mại biên giới và
cung cấp nguyên liệu cho sản xuất hàng hóa;
c) Hoàn
thiện cơ chế điều phối hoạt động thương mại biên giới Việt - Trung linh hoạt,
hiệu quả từ Trung ương đến địa phương, kết hợp với phân cấp quản lý, điều hành
hoạt động thương mại biên giới một cách hợp lý.
4. Quy hoạch phát triển
4.1. Lĩnh
vực công nghiệp
4.1.1. Công
nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản
a) Đến năm
2020
Tập trung
đầu tư, nâng cấp công nghệ khai thác nhằm sử dụng hiệu quả tài nguyên và bảo vệ
môi trường, triển khai các dự án chế biến sâu một số khoáng sản có trữ lượng
lớn như quặng apatít, đồng, đá xây dựng và quặng sắt.
b) Tầm nhìn
đến năm 2030
Tiếp tục đầu
tư thăm dò tài nguyên, đánh giá trữ lượng khoáng sản tại khu vực biên giới, đảm
bảo độ tin cậy. Đồng thời, tập trung chế biến sâu với công nghệ cao nhằm nâng
cao chất lượng sản phẩm, gia tăng giá trị và nâng cao hiệu quả trong chế biến
khoáng sản.
4.1.2. Công
nghiệp chế biến nông, lâm sản, thực phẩm và đồ uống
a) Đến năm
2020
Đầu tư các
dự án chế biến lâm sản, nông sản để khai thác lợi thế về nguồn nguyên liệu từ
chăn nuôi, trồng trọt và thủy sản. Trong đó tập trung vào một số lĩnh vực như
chế biến chè, chế biến lâm sản (gỗ, que, hồi, nhựa thông). Đồng thời tiếp tục
triển khai các dự án chế biến, bảo quản thực phẩm (thịt gia súc, gia cầm, nước
giải khát, thạch đen, rượu...).
b) Tầm nhìn
đến năm 2030
Phát triển
công nghiệp chế biến gắn với vùng nguyên liệu tập trung nhằm thúc đẩy sản xuất
hàng hóa, tăng thêm giá trị và sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong
và ngoài nước, kết hợp ưu tiên đầu tư đổi mới trang thiết bị và công nghệ.
4.1.3. Công
nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng
a) Đến năm
2020
Đầu tư
chuyển đổi công nghệ của một số cơ sở sản xuất xi măng, đá xây dựng và gạch.
Đồng thời tận dụng nguồn nguyên liệu của các địa phương để sản xuất vật liệu
không nung và tiến tới xóa bỏ các lò nung thủ công.
b) Tầm nhìn
đến năm 2030
Đầu tư
chuyển đổi công nghệ, thay thế dần công nghệ lạc hậu kết hợp ứng dụng kỹ thuật
mới, tiên tiến vào sản xuất các loại vật liệu mới, vật liệu cao cấp, vật liệu
tổng hợp.
4.1.4. Công
nghiệp cơ khí, luyện kim
a) Đến năm
2020
Đầu tư một
số dự án sản xuất thép quy mô lớn tại Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang. Tiếp tục đầu
tư phát triển tiểu thủ công nghiệp và sản xuất các sản phẩm cơ khí, máy móc
phục vụ nông, lâm nghiệp; các cửa hàng dịch vụ sửa chữa máy móc, thiết bị,
phương tiện.
b) Tầm nhìn
đến năm 2030
Đầu tư mới,
mở rộng các dự án đóng tàu, sửa chữa tàu tại khu công nghiệp ven biển thuộc
tỉnh Quảng Ninh và các cơ sở lắp ráp máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất nông,
lâm nghiệp tại các khu kinh tế cửa khẩu;
Tiếp tục
phát triển các ngành tiểu, thủ công nghiệp, sản xuất các dụng cụ cầm tay, các
dịch vụ sửa chữa thiết bị cơ khí và phương tiện vận tải.
4.1.5. Công
nghiệp dệt may, da giầy
a) Đến năm
2020
Triển khai
đầu tư một số dự án quy mô lớn trong lĩnh vực dệt và một số dự án sản xuất
giầy, kết hợp với khôi phục một số làng nghề thổ cẩm để liên kết tạo ra các sản
phẩm du lịch mới. Đồng thời, đầu tư các cơ sở may mặc quy mô nhỏ nhằm phục vụ nhu
cầu tiêu dùng của đồng bào dân tộc trong khu vực.
b) Tầm nhìn
đến năm 2030
Tiếp tục đầu
tư một số dự án vào các khu công nghiệp trên địa bàn tuyến biên giới. Đồng
thời, tùng bước đầu tư đổi mới công nghệ, nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm kết
hợp với xây dựng và phát triển thương hiệu.
4.1.6. Công
nghiệp hóa chất
a) Đến năm
2020
Tập trung
đầu tư hoàn thành dự án sản xuất phân bón DAP và một số dự án sản xuất phân vi
sinh và chất tẩy rửa, nhiên liệu sinh học. Tiếp tục phát triển một số dự án sản
xuất liên quan đến phốt pho và chiết xuất dược liệu.
b) Tầm nhìn
đến năm 2030
Tiếp tục đẩy
mạnh sản xuất và thu hút đầu tư vào một số sản phẩm nhựa phục vụ tiêu dùng và
hóa dược.
4.1.7. Sản
xuất và phân phối điện
- Đồng bộ
hóa, hiện đại hóa mạng lưới truyền tải, phân phối đảm bảo cung cấp điện liên
tục, an toàn, hiệu quả, ưu tiên các phụ tải sản xuất, quốc phòng, an ninh; phấn
đấu đến năm 2020 về cơ bản tất cả các hộ dân được sử dụng điện;
- Ưu tiên
phát triển một số nguồn năng lượng sạch, năng lượng tái tạo.
4.1.8. Tiểu
thủ công nghiệp - Làng nghề
- Phát triển
các ngành tiểu thủ công nghiệp, nghề truyền thống có sử dụng nhiều lao động và
nguyên liệu tại địa phương như dệt, mây tre đan, chạm khắc gỗ, mộc dân dụng...;
- Tập trung
hỗ trợ phát triển làng nghề, nghề truyền thống của đồng bào các dân tộc; đào
tạo, du nhập nghề mới cho nhân dân để giải quyết việc làm, tăng thu nhập, đảm
bảo quốc phòng, an ninh, góp phần xóa đói, giảm nghèo.
4.2. Lĩnh
vực thương mại
4.2.1. Hệ
thống thị trường
a) Thị
trường hàng tiêu dùng
- Đối với
khu vực đô thị
+ Xây dựng
cấu trúc cân đối, hợp lý giữa các khu thương mại - dịch vụ để hình thành mạng
lưới các khu thương mại - dịch vụ;
+ Phát triển
các hình thức bán lẻ mới như trung tâm thương mại, siêu thị tổng hợp, siêu thị
chuyên doanh và siêu thị dạng kho hàng trong đó chủ yếu là loại hình kinh doanh
tổng hợp;
+ Đa dạng
chức năng của chợ bán buôn, chợ chuyên doanh theo hướng chuyển đổi các ban quản
lý chợ sang doanh nghiệp hoặc hợp tác xã kinh doanh và áp dụng các hình thức
giao dịch hiện đại, các dịch vụ tổng hợp.
- Đối với
khu vực nông thôn
+ Phát triển
thị trường nông thôn gắn với việc tổ chức tốt hệ thống chợ cụm xã và các cụm
thương mại - dịch vụ tại các trung tâm dân cư, vừa đảm bảo kinh doanh và phục
vụ hàng chính sách, vừa kết hợp hoạt động thương mại với giao lưu văn hóa của
đồng bào dân tộc.
+ Khuyến
khích và hỗ trợ các doanh nghiệp thương mại phát triển hệ thống cửa hàng để trở
thành kênh phân phối chủ yếu hàng công nghiệp tiêu dùng.
+ Tại các xã
và trung tâm cụm xã, phát triển các chợ hạng III phục vụ cho việc trao đổi mua
bán hàng hóa, nông sản; tại các khu dân cư tập trung chú ý phát triển phù hợp
siêu thị quy mô hạng III.
b) Thị
trường hàng nông sản
- Phát triển
các trung tâm mua sắm, siêu thị, chuỗi cửa hàng thực phẩm ở khu vực đô thị;
- Khuyến
khích các nhà sản xuất, nhà cung ứng bán nông sản vào các siêu thị, cửa hàng.
Đồng thời phát triển hình thức mua bán thông qua hợp đồng giữa thương nhân và
người nông dân.
c) Thị
trường ngành hàng, mặt hàng xuất - nhập khẩu
- Đẩy mạnh
xuất khẩu những mặt hàng có giá trị tăng thêm cao, tăng sản phẩm chế biến, chế
tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng hàng
thô;
- Phát triển
các hệ thống doanh nghiệp xuất, nhập khẩu kết hợp với nâng cao nghiệp vụ cho
đội ngũ quản lý doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất - nhập khẩu.
d) Tầm nhìn
đến 2030
- Phát triển
mạnh các hình thức bán lẻ mới như trung tâm thương mại, trung tâm mua sắm, siêu
thị tổng hợp, siêu thị chuyên doanh và siêu thị dạng kho hàng trong đó chủ yếu là
loại hình kinh doanh tổng hợp.
- Từng bước
hiện đại mạng lưới phân phối, hình thành và phát triển các chuỗi cung ứng,
trong đó chú trọng phát triển các chuỗi liên kết theo phương thức nhượng quyền
kinh doanh và các chuỗi liên kết tự nguyện của các siêu thị nhỏ, các cửa hàng
chuyên doanh để tăng năng lực cạnh tranh;
- Phát triển
các trung tâm logistics để cung cấp đồng bộ các dịch vụ hậu cần phân phối.
- Hệ thống
doanh nghiệp thương mại
+ Các doanh
nghiệp thương mại bán lẻ: Phát triển các doanh nghiệp thương mại bán lẻ của các
thành phần kinh tế theo những loại hình như: trung tâm thương mại; siêu thị vừa
và nhỏ; chợ tổng hợp, chợ chuyên doanh, chợ nông thôn...
+ Các doanh
nghiệp thương mại bán buôn: Tiếp tục phát triển các doanh nghiệp thương mại bán
buôn theo các loại hình như: công ty bán buôn tổng hợp, công ty bán buôn chuyên
doanh, hợp tác xã thương mại thu mua, trung tâm kho vận và trung chuyển.
+ Các đại
lý:
Thay đổi
chức năng và vai trò của các đại lý từ bán buôn đơn thuần sang cung cấp dịch vụ
là chính. Các nhà bán buôn, đại lý sẽ chuyển trọng tâm từ mua bán, giao dịch,
lợi nhuận ngắn hạn chuyển sang xây dựng thương hiệu dịch vụ phân phối hàng hóa;
Tăng mức độ
chuyên nghiệp hóa trong hệ thống đại lý, phát triển một cách chuyên nghiệp hóa
theo từng loại hình kênh phân phối.
4.2.2. Kết
cấu hạ tầng thương mại
a) Các khu
thương mại
Xây dựng và
nâng cấp các khu thương mại tại trung tâm các huyện, trong đó tập trung đầu tư
phát triển nhanh ở các khu thương mại tại khu vực cửa khẩu Tân Thanh, cửa khẩu
Móng Cái, cửa khẩu Lào Cai.
b) Các trung
tâm trung chuyển và kho vận
Xây dựng
trung tâm trung chuyển tại Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng, Lào Cai, Móng Cái và
các hệ thống kho bãi tại các cửa khẩu Mường Khương, Xín Mần, Thanh Thủy, Sóc
Giang, Hùng Quốc, Tà Lùng, Hoành Mô và Bắc Phong Sinh.
c) Sàn giao
dịch hàng hóa
Thí điểm xây
dựng sàn giao dịch hàng hóa tại một trong các địa điểm: khu Thương mại Tân
Thanh, khu Thương mại - Công nghiệp Kim Thành và Khu thương mại trong khu Kinh
tế cửa khẩu Móng Cái và tại các cửa khẩu Hoành Mô, Tà Lùng, Thanh Thủy.
d) Trung tâm
thương mại
Xây dựng
Trung tâm thương mại tại các khu Kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng, Lào Cai, Móng Cái,
Thanh Thủy...
đ) Hệ thống
siêu thị
Xây dựng
siêu thị tổng hợp hạng 2 tại Hải Hà, Cao Lộc, Vị Xuyên. Đồng thời xây dựng và
nâng cấp các siêu thị hạng 3 tại khu vực thị trấn các huyện biên giới.
e) Hệ thống
chợ
- Tiếp tục
xây dựng và nâng cấp mở rộng hệ thống chợ đường biên tại các lối mở phục vụ nhu
cầu mua sắm, trao đổi hàng hóa của cư dân sinh sống ở khu vực biên giới, kết
hợp xây dựng mới một số chợ cửa khẩu;
- Nâng cấp,
mở các chợ hạng 3 tại các xã phục vụ nhu cầu tiêu dùng của dân cư trên địa bàn,
đồng thời là nơi trao đổi, mua bán hàng nông sản thực phẩm.
6. Một số
giải pháp chủ yếu
6.1. Giải
pháp ngắn hạn
a) Tập trung
phát triển hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông và hạ tầng khu công nghiệp,
khu kinh tế cửa khẩu, hệ thống vận tải, kho bãi, khu kiểm hóa tại các khu vực
cửa khẩu biên giới. Đồng thời đẩy nhanh tiến độ xây dựng kết cấu hạ tầng thương
mại tại các khu vực cửa khẩu biên giới như kho tàng để bảo quản, chợ biên giới,
khu gia công chế biến, phân loại đóng gói hàng hóa xuất khẩu;
b) Thành lập
Trung tâm điều phối hoạt động thương mại biên giới nhằm thu thập đầy đủ, kịp
thời và chính xác các thông tin liên quan đến thị trường, cơ chế, chính sách
của Trung Quốc để cung cấp cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Đồng thời điều tiết
các hoạt động xuất khẩu nhằm đạt được hiệu quả nhất.
6.2. Giải
pháp dài hạn
a) Tiếp tục
triển khai các hoạt động liên quan đến thành lập các Khu hợp tác kinh tế qua
biên giới để thuận tiện cho việc xuất, nhập khẩu hàng hóa. Phối hợp ban hành cơ
chế chính sách quản lý thống nhất, có sự phối hợp giám sát giữa hai bên nhằm
phát huy tối đa lợi thế của mỗi bên và đảm bảo hài hòa lợi ích chung.
b) Hoàn
thiện hành lang pháp lý giữa hai nước, tạo điều kiện đơn giản hóa các thủ tục
hành chính (như thủ tục Hải quan, kiểm dịch động thực vật, thị thực xuất nhập
cảnh...) theo mô hình dịch vụ một cửa liên thông, nhằm hỗ trợ cho các doanh
nghiệp và cư dân biên giới giữa hai nước được trao đổi hàng hóa và dịch vụ
thương mại hỗ trợ nhau cùng phát triển.
c) Đẩy mạnh
các hoạt động thương mại biên giới tại các khu kinh tế cửa khẩu, khu vực chợ
biên giới…, cũng như trong khuôn khổ hợp tác kinh tế trong khu vực và trên thế
giới.
d) Phát
triển tiểu thủ công nghiệp và khôi phục lại các làng nghề nhằm xóa đói, giảm
nghèo, tạo công ăn việc làm nhằm giải quyết các vấn đề xã hội, đảm bảo quốc
phòng, an ninh khu vực biên giới.
đ) Tiếp tục
cải thiện môi trường đầu tư, xây dựng cơ chế chính sách ưu đãi phù hợp tạo điều
kiện cho các nhà đầu tư. Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các dự án
quy mô lớn và có sức lan tỏa.
e) Triển
khai đồng bộ một số giải pháp liên quan khác như phát triển nguồn nhân lực, đổi
mới công nghệ, phát triển thị trường, xúc tiến đầu tư nhằm thúc đẩy ngành công
nghiệp và thương mại tuyến biên giới Việt - Trung phát triển.
g) Tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát thực hiện quy hoạch nhằm đảm bảo việc triển
khai quy hoạch một cách thống nhất, tuân thủ phân bố không gian và liên kết
tuyến nhằm hạn chế việc đầu tư chồng chéo gây lãng phí; khai thác tối đa lợi
thế của từng địa phương trong tuyến và phát huy hiệu quả của các dự án đầu tư.
7. Tổ chức
thực hiện
a) Bộ Công
Thương chịu trách nhiệm công bố "Quy hoạch tổng thể phát triển công
nghiệp, thương mại dọc tuyến biên giới Việt - Trung đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030" và tổ chức theo dõi, kiểm tra việc thực hiện quy hoạch.
b) Các Bộ,
ngành liên quan theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm
phối hợp với Bộ Công Thương và Ủy ban nhân dân các tỉnh trên tuyến biên giới
Việt - Trung đề xuất, xây dựng các cơ chế, chính sách cụ thể để tạo điều kiện
thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu của Quy hoạch.
c) Ủy ban
nhân dân các tỉnh trên tuyến biên giới Việt - Trung
- Phối hợp
với Bộ Công Thương tổ chức triển khai thực hiện Quy hoạch; chỉ đạo xây dựng và
ban hành các cơ chế, chính sách phù hợp nhằm thu hút đầu tư. Khẩn trương triển
khai xây dựng các công trình hạ tầng đặc biệt là hạ tầng khu kinh tế cửa khẩu,
khu, cụm công nghiệp, giao thông, thông tin liên lạc để tạo điều kiện thuận lợi
nhất cho các nhà đầu tư.
- Căn cứ vào
Quy hoạch phát triển công nghiệp, thương mại tuyến biên giới Việt - Trung để rà
soát, điều chỉnh nội dung quy hoạch phát triển công nghiệp, thương mại cho phù
hợp, tránh đầu tư chồng chéo.
- Xây dựng
chương trình chung về xúc tiến kêu gọi đầu tư và triển khai quy hoạch một cách
thống nhất, góp phần phát triển hài hòa, giải quyết vấn đề lao động và an sinh
xã hội.
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực kể từ
ngày ký.
Điều 3. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang Bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh tuyến biên giới Việt - Trung và các
tổ chức, cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
PHỤ LỤC
DANH MỤC MỘT SỐ DỰ ÁN ĐẦU TƯ CHỦ YẾU
(Kèm theo Quyết định số 805/QĐ-BCT ngày 23 tháng 01 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Công Thương)
(Kèm theo Quyết định số 805/QĐ-BCT ngày 23 tháng 01 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Công Thương)
1. CÔNG
NGHIỆP KHAI THÁC VÀ CHẾ BIẾN KHOÁNG SẢN
1.
|
Khai thác
và khai thác tận thu kết hợp với tuyến quặng sắt, chì, kẽm
|
Các huyện giáp biên giới thuộc Lạng Sơn, Hà Giang,
Lào Cai, Lai Châu, Cao Bằng
|
2.
|
Khai thác,
mở rộng và tuyển quặng Apatit
|
Bát Xát (Lào Cai)
|
3.
|
Mở rộng,
nâng công suất khai thác mỏ đá vôi cung cấp nguyên liệu cho nhà máy xi măng
|
Cao Lộc (Lạng Sơn) và Bảo Lâm (Cao Bằng)
|
4.
|
Mở rộng
nhà máy luyện đồng Tằng Loỏng
|
Bảo Thắng (Lào Cai)
|
5.
|
Luyện chì
tách bạc và ổn định nguyên liệu đầu vào cho chế biến chì thỏi
|
Vị Xuyên (Hà Giang), Cao Lộc (Lạng Sơn)
|
6.
|
Thăm dò
đánh giá trữ lượng đảm bảo khai thác ổn định quặng sắt, đồng, barít, đất
hiếm, cao lanh, fenspat, chì kẽm
|
Các huyện biên giới thuộc Lai Châu, Hà Giang, Cao
Bằng, Lạng Sơn
|
2. CÔNG
NGHIỆP CƠ KHÍ, LUYỆN KIM, THIẾT BỊ ĐIỆN, ĐIỆN TỬ
1.
|
Đóng tàu,
thiết bị siêu trường, siêu trọng, máy nâng hạ, vận chuyển, sửa chữa tàu,
thuyền
|
Hải Hà, Móng Cái (Quảng Ninh)
|
2.
|
Sản xuất
lắp ráp ôtô tải, xe chở khách cỡ nhỏ
|
Khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai, Đồng Đăng, Móng Cái
|
3.
|
Sản xuất
tấm lợp kim loại, kết cấu thép như khung nhà tiền chế, giá kệ
|
Lào Cai, Cao Lộc (Lạng Sơn), Móng Cái, Hải Hà (Quảng
Ninh)
|
4.
|
Luyện, cán
thép tại Hải Hà
|
Hải Hà (Quảng Ninh)
|
5.
|
Sản xuất
cơ khí nhỏ phục vụ sản xuất nông, lâm nghiệp
|
Các huyện giáp biên giới
|
6
|
Sản xuất,
lắp ráp thiết bị, linh kiện điện tử
|
Lào Cai, Đồng Đăng (Lạng Sơn), Móng Cái, Hải Hà
(Quảng Ninh)
|
4. SẢN XUẤT
VẬT LIỆU XÂY DỰNG
1.
|
Sản xuất
gạch không nung
|
Các huyện giáp biên giới
|
2.
|
Sản xuất
gạch, ngói lò tuy nen
|
Mường Nhé, Phong Thổ, Si Ma Cai, Bảo Lạc, Hòa An,
Lộc Bình, Cao Lộc, Tràng Định, Đình Lập, Bình Liêu, Hải Hà và một số huyện có
tiềm năng
|
3.
|
Chuyển đổi
công nghệ sản xuất xi măng từ lò đứng sang lò quay
|
Phong Thổ (Lai Châu), Vị Xuyên (Hà Giang), Bảo Thắng
(Cao Bằng)
|
4.
|
Sản xuất
đá ốp lát, đá xây dựng
|
Mường Tè, Phong Thổ, Sìn Hồ (Lai Châu), Bình Liêu,
Móng Cái, Hải Hà (Quảng Ninh)
|
5. CÔNG
NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG, LÂM, SẢN THỰC PHẨM
1
|
Chế biến chè
xanh, chè đen công nghệ hiện đại
|
Mường Nhé, Mường Khương, Hoàng Su Phì, Vị Xuyên, Hòa
An, Bảo Thắng, Đình Lập, Móng Cái
|
2
|
Chế biến
thịt gia súc, gia cầm
|
Khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai, Đồng Đăng, Móng Cái
|
3
|
Sản xuất
thức ăn chăn nuôi
|
Vị Xuyên (Hà Giang), Đồng Đăng (Lạng Sơn), Hải Hà
(Quảng Ninh)
|
4
|
Kho lạnh
bảo quản thực phẩm
|
Khu kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy, Tà Lùng, Lào Cai,
Đồng Đăng, Móng Cái
|
5
|
Sản xuất
rượu
|
TP Lào Cai, Mường Khương, Si Ma Cai (Lào Cai), Quản
Bạ (Cao Bằng), Cao Lộc (Lạng Sơn), Yên Minh (Hà Giang), Bình Liêu (Quảng
Ninh)
|
6
|
Sản xuất
gỗ ván dăm, MDF, tinh bột giấy
|
Mường Tè (Lai Châu), TP Lào Cai, Si Ma Cai, Mường
Khương, Bảo Thắng (Lào Cai), Bảo Lạc, Thông Nông, Phục Hòa (Cao Bằng), Cao
Lộc, Tràng Định (Lạng Sơn), Móng Cái, Bình Liêu (Quảng Ninh)
|
7
|
Chế biến
nhựa thông, tinh dầu hồi, quế
|
Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng
|
6. CÔNG
NGHIỆP HÓA CHẤT VÀ SẢN PHẨM HÓA CHẤT
1.
|
Sản xuất
phân DAP
|
Bảo Thắng (Lào Cai)
|
2.
|
Mở rộng
Nhà máy phốt pho vàng
|
Bảo Thắng (Lào Cai)
|
3.
|
Sản xuất
phân vi sinh
|
Cao Lộc (Lạng Sơn), Bình Liêu (Quảng Ninh)
|
4.
|
Chiết xuất
hóa dược có nguồn gốc thiên nhiên
|
TP Lào Cai (Lào Cai), Tà Lùng (Cao Bằng), Thanh
Thủy, Vị Xuyên (Hà Giang)
|
5.
|
Sản xuất
chất tẩy rửa công nghiệp, dân dụng
|
TP Lào Cai (Lào Cai), Móng Cái (Quảng Ninh)
|
6.
|
Chế biến
mủ cao su thiên nhiên, cao su tổng hợp
|
Các huyện thuộc Điện Biên, Lai Châu
|
7.
|
Sản xuất
thuốc kháng sinh, hóa dược vô cơ và tá dược thông thường
|
Thành phố Lào Cai, Cao Lộc, Móng Cái,
|
7. CÔNG
NGHIỆP MAY MẶC, DA GIẦY
1.
|
Sản xuất
sợi, vải và các phụ phẩm
|
Móng Cái (Quảng Ninh)
|
2.
|
Khôi phục
thêu, dệt thổ cẩm
|
Các địa phương có làng nghề
|
3.
|
Sản xuất
giầy xuất khẩu
|
Khu kinh tế cửa khẩu
|
8. SẢN XUẤT
VÀ PHÂN PHỐI ĐIỆN
1
|
Huội Quảng
#1, 2
|
Lai Châu
|
2
|
Sông Lô 6
|
Bắc Quang
|
4
|
Đồng bộ
hóa hệ thống lưới điện giữa nguồn và phụ tải
|
Các huyện giáp biên giới
|
5
|
Thủy điện
Lai Châu
|
Mường Tè, Lai Châu
|
6
|
Thủy điện
Bảo Lâm
|
Bảo Lâm, Cao Bằng
|
7
|
Nhiệt điện
Na Dương II # 1,2
|
Lộc Bình, Lạng Sơn
|
8
|
Các dự án
thủy điện nhỏ phù hợp với quy định tại Thông tư số: 43/2012/TT-BCT
|
Các huyện giáp biên giới
|
9. HẠ TẦNG
THƯƠNG MẠI
Huyện
Mường Nhé
|
|
Các khu
chức năng
|
Cửa khẩu A Pa Chải
|
Chợ hạng 3
|
Trung tâm huyện
|
Huyện
Phong Thổ
|
|
Các khu
chức năng
|
Cửa khẩu Ma Lù Thàng
|
Chợ hạng 3
|
Trung tâm huyện
|
Siêu thị
|
Trung tâm huyện
|
Trung tâm thương
mại
|
Trung tâm huyện
|
Siêu thị
|
Trung tâm huyện
|
Siêu thị
|
Xã Nậm Hàng
|
02 Chợ
biên giới
|
Thu Lũm, Ka Lăng
|
Huyện Sìn
Hồ
|
|
Chợ hạng 2
|
Trung tâm huyện
|
Siêu thị
hạng 3
|
Nậm Tăm
|
TP Lào Cai
|
|
Đại siêu
thị
|
KKT Cửa khẩu Lào Cai
|
Nâng cấp
trung tâm thương mại Kim Thành
|
KKT Cửa khẩu Lào Cai
|
Kho chứa
hàng hóa
|
KKT Cửa khẩu Lào Cai
|
TT giới
thiệu sản phẩm
|
KKT Cửa khẩu Lào Cai
|
Sàn giao
dịch hàng hóa
|
KKT Cửa khẩu Lào Cai
|
Huyện Bát
Xát
|
|
Chợ hạng 2
|
Trung tâm huyện
|
Siêu thị
hạng 3
|
Trung tâm huyện
|
Huyện Bảo
Thắng
|
|
Chợ hạng 2
|
Trung tâm huyện
|
Siêu thị
hạng 3
|
Trung tâm huyện
|
Huyện
Mường Khương
|
|
Kho chứa
hàng hóa
|
Cửa khẩu Mường Khương
|
Chợ hạng 2
|
Trung tâm huyện
|
Siêu thị
hạng 3
|
Trung tâm huyện
|
Huyện Si
Ma Cai
|
|
Siêu thị
hạng 3
|
Trung tâm huyện
|
Huyện Xín
Mần
|
|
Kho chứa
hàng hóa
|
Cửa khẩu Xín Mần
|
Chợ hạng 2
|
Cửa khẩu Xín Mần
|
Siêu thị
tổng hợp loại 3
|
Thị trấn Cốc Pài
|
Huyện
Hoàng Su Phì
|
|
Siêu thị
hạng 3
|
Thị trấn Vinh Quang
|
Huyện Vị
Xuyên
|
|
Kho chứa
hàng hóa
|
Cửa khẩu Thanh Thủy
|
Khu thương
mại
|
Cửa khẩu Thanh Thủy
|
Siêu thị
hạng 2
|
Thị trấn Vị Xuyên
|
Huyện Quản
Bạ
|
|
Siêu thị
hạng 3
|
Trung tâm huyện
|
Huyện Yên
Minh
|
|
Siêu thị
hạng 3
|
Trung tâm huyện
|
Huyện Đồng
Văn
|
|
Siêu thị
hạng 3
|
Thị trấn Phố Bàng, Đồng Văn
|
Huyện Mèo
Vạc
|
|
Siêu thị
hạng 3
|
Thị trấn Mèo Vạc
|
Điểm
thương mại
|
Nho Quế
|
Siêu thị
hạng 3
|
Nho Quế
|
Huyện Hà
Quảng
|
|
Kho chứa
hàng hóa
|
Cửa khẩu Sóc Giang
|
Khách sạn
|
Cửa khẩu Sóc Giang
|
Chợ hạng 2
|
Cửa khẩu Sóc Giang
|
Siêu thị
tổng hợp loại 3
|
Cửa khẩu Sóc Giang
|
Huyện Trà
Lĩnh
|
|
TT giao
dịch thương mại
|
Cửa khẩu Hùng Quốc
|
Siêu thị
hạng 3
|
Cửa khẩu Hùng Quốc
|
Kho chứa
hàng hóa
|
Cửa khẩu Hùng Quốc
|
Cải tạo,
nâng cấp cặp chợ biên giới
|
Đức Long-Bó Cục
|
Huyện
Trùng Khánh
|
|
Siêu thị
hạng 3
|
Cửa khẩu Ngọc Khê
|
Chợ biên
giới
|
Khu vực thác Bản Giốc
|
Huyện Phục
Hòa
|
|
Siêu thị
hạng 2
|
Cửa khẩu Tà Lùng
|
Kho chứa
hàng hóa
|
Cửa khẩu Tà Lùng
|
Sàn giao
dịch hàng hóa
|
Cửa khẩu Tà Lùng
|
Huyện
Thạch An
|
|
Siêu thị
hạng 2
|
Thị trấn Đông Khê
|
Huyện Cao
Lộc
|
|
Siêu thị
hạng 1
|
KKT Cửa khẩu Đồng Đăng
|
TT thương
mại
|
KKT Cửa khẩu Đồng Đăng
|
TT bán
buôn
|
KKT Cửa khẩu Đồng Đăng
|
TT giới
thiệu sản phẩm
|
KKT Cửa khẩu Đồng Đăng
|
Siêu thị
hạng 2
|
Thị trấn Cao Lộc
|
Huyện Lộc
Bình
|
|
TT thương
mại
|
Cửa khẩu Chi Ma
|
Siêu thị
hạng 3
|
Thị trấn Lộc Bình
|
Siêu thị
tổng hợp
|
Cửa khẩu Chi Ma
|
Huyện
Tràng Định
|
|
TT thương
mại
|
Thị trấn Thất Khê
|
Siêu thị
hạng 3
|
Thị trấn Thất Khê
|
Huyện Văn
Lãng
|
|
Siêu thị
hạng 1
|
Cửa khẩu Tân Thanh
|
TT thương
mại
|
Thị trấn Na Sầm
|
Siêu thị
tổng hợp
|
Thị trấn Na Sầm
|
Huyện Đình
Lập
|
|
Siêu thị
hạng 3
|
Thị trấn Đình Lập
|
Huyện Bình
Liêu
|
|
Siêu thị
tổng hợp
|
Cửa khẩu Hoành Mô
|
Kho chứa
hàng hóa
|
Cửa khẩu Hoành Mô
|
Sàn giao
dịch hàng hóa
|
Cửa khẩu Hoành Mô
|
Siêu thị
hạng 3
|
Thị trấn Bình Liêu
|
Huyện Hải
Hà
|
|
Siêu thị
hạng 2
|
Cửa khẩu Bắc Phong Sinh
|
Kho chứa
hàng hóa
|
Cửa khẩu Bắc Phong Sinh
|
TT thương
mại
|
Cửa khẩu Bắc Phong Sinh
|
TT giới
thiệu sản phẩm
|
Cửa khẩu Bắc Phong Sinh
|
Siêu thị
hạng 2
|
Khu vực thị trấn
|
Thành phố
Móng Cái
|
|
Siêu thị
hạng 1
|
Cửa khẩu Móng Cái
|
Kho chứa
hàng hóa
|
Cửa khẩu Móng Cái
|
Sàn giao
dịch hàng hóa
|
Cửa khẩu Móng Cái
|
TT thương
mại
|
Cửa khẩu Móng Cái
|
TT Hội chợ
triển lãm
|
Thành phố Móng Cái
|
TT giới
thiệu sản phẩm
|
Cửa khẩu Móng Cái
|
TT bán
buôn
|
Cửa khẩu Móng Cái
|