Trường ca
Hồ Chí Minh
Tác
giả: Nguyễn Mạnh Hùng
Khuyến cáo: Bạn đọc có quyền suy tưởng, liên hệ các nhân
vật, sự kiện thời gian với cách hiểu chính sử hoặc các tài liệu đã biết, đàm
thoại, suy tư theo cách hiểu của mình. Trường ca khác với biên niên sử và các
thể loại nghiên cứu, văn chương khác. Thần tượng mang huyền thoại. Thần tượng
khác tượng đài. Các chú giải tóm tắt từ các nguồn tư liệu công khai.
Trân trọng bạn đọc
---------------------------------------
Mở đầu: QUÊ HƯƠNG, GIA TỘC
1.
Bỉnh Khiêm[1]
từ nhiệm về thiền,
2.
Đêm
đêm thắp lửa nỗi niềm non sông.
3.
Gió
thổi từ phía Bể Đông,
4.
Mang
theo tiếng sấm bão giông mỗi mùa.
5.
Nước
Nam loạn lạc thắng thua,
6.
Mục
đồng có cửa làm vua ngai vàng.
7.
Cơm
sống thì phải đem rang,
8.
Lê
triều nhịn Mạc[2],
Nguyễn Hoàng[3]
xuôi Nam...
9.
Bạch
Vân thấp thỏm nén nhang,
10.
Gieo đồng xu kẽm hương tàn không
ra?
11.
Một
người khách ở nơi xa,
12.
Tặng
con xúc xắc lưỡng hoa văn hồng.
13.
Chữ
Vạn[4], dấu Thập
bên hông,
14.
Bốn
mặt trắng muốt như bông rộ mùa.
15.
Khách
rằng: Trạng thắp hương hoa,
16.
Mặt
trắng nổi chữ là ra sấm truyền.
17.
Khách
đi để lại nỗi niềm,
18.
Mây
bông bảng lảng tiếng chim gọi bầy.
19.
Tiểu
đồng theo Trạng nhiều ngày,
20.
Tự dưng ca hát chân tay nhịp nhàng.
21.
Trăng
thanh gió thổi dịu dàng,
22.
Trạng
gieo xúc xắc chữ vàng nổi nhanh:
23.
"Nam
Đàn bò đái thất thanh,
24.
Núi
bằng nứt kẽ thánh Thành đầu thai"[5]
25.
Tiểu
đồng đái trái am khai,
26.
Trạng
biên thành sấm truyền dài bách niên.
27.
Phượng
hoàng tìm đất thánh hiền,
28.
Trung
Đô [6] là đất Cao
Biền[7] không ưng?
29.
Gió
Lào thổi rát cặp mông,
30.
Nữ nhi vất vả chiều chồng nuôi
con.
31.
Gió
Lào thổi bong tróc sơn,
32.
Thếp
vàng rơi rụng chỉ còn cốt xương!
33.
Người
dân xứ ấy yêu thương,
34.
Xa
quê gắn kết thành phường Nghệ An.
35.
Xứ
nhiều ngày nắng chang chang,
36.
Mặt
trời mài miết màu vàng Phật sa !
37.
Người
dân sống khá thật thà,
38.
Nồi
khoai luộc với hông trà xanh thơm.
39.
Rất
nhiều món ăn thay cơm,
40.
Cá kho trừ bữa qua cơn đói mềm.
41.
Xứ
này mặn ngọt hay thêm,
42.
Xương
cứng, não trạng gần thềm thánh nhân.
43.
Người
xưa cho đến người gần,
44.
Theo
đường khoa bảng là phần ưu tiên.
45.
Nhiều
người ba họ tá điền,
46.
Chăm
đường đèn sách đỗ liền mấy khoa.
47.
Trần
thị một người đàn bà,
48.
Thiên
ý cho biết ai là liền ông.
49.
Kẻ
sĩ lúc vắng khi đông,
50.
Phàm phu tục tử bà không lạ gì.
51.
Núi
cao nước chảy rầm rì,
52.
Tiếng
bò đái xối sau thì thất thanh.
53.
Nghe
như gió thổi đồi tranh,
54.
Đụn
sơn phân thuỷ cỏ xanh me[8] vàng.
55.
Ngũ
hổ chữ nghĩa Nam Đàn [9],
56.
Một
người hiểu được sấm tràn đến đây.
57.
Trần
thị giang đôi bàn tay,
58.
Sinh
ra bố thánh trong ngày bão giông.
59.
Gian
truân ghép gả thuận tòng,
60.
Bao nhiêu trang sử thuộc lòng đúng
sai?
61.
Từ
xưa các bậc thiên tài,
62.
Dấu
huyền phủ xuống là bài học hay.
63.
Trắng
đen bởi ánh dương này,
64.
Tạo
hoá như thể con quay, con cù.
65.
Trần
thị đi vào mịt mù,
66.
Người
con sinh thánh gặp dù lão gia.
67.
Họ
Hoàng gốc ở nơi xa,
68.
Nghe
sấm "Phủ Khoái" đi ra khỏi làng.
69.
Được
thầy dậy chữ nên ngoan,
70.
Con thầy xinh đẹp, phượng loan hạp
tình.
71.
Quyết
đường khoa bảng thân vinh,
72.
Nam
Đàn đồn đoán Sấm Trình Sào Nam ?
73.
Súng
dài chiến trận Vũ Quang [10],
74.
Cần
Vương[11] chiếu mỏng,
cờ tàn bi ai.
75.
Khoá
Sắc[12] đêm ngày
luyện tài,
76.
Vợ
sinh ra Thánh năm khoai được mùa.
77.
Thầy
Đường [13] tuổi đã
già nua,
78.
Lấy
ngay lá số tử vi cháu mình.
79.
Các
thầy giải chữ "Đại tinh":
80.
Ngôi sao to lớn hiện hình phương
Nam.
81.
Cung
thê không có chữ "phàm",
82.
Gia
đình lưu lạc khi làm đế vương.
83.
Cung
sinh khúc khuỷu con đường,
84.
Phục
binh thấp thoáng chúng thường tháo lui.
85.
Sĩ
phu xứ Nghệ ngậm ngùi,
86.
Đất
vương tái xuất chiến vùi lấp nhau.
87.
Tiếng
trống Xô viết[14]
về sau,
88.
Người
ta hơn kiểu người Tàu nội tranh!
89.
Mái
nhà quê ngoại lợp gianh,
90.
Vườn chè xen bụi tre xanh bốn mùa.
91.
Vườn
khoai lang giống tiến vua,
92.
Đôi
khi làm lễ cúng chùa mời sư.
93.
Tuổi
thơ câu cá đánh cù,
94.
Leo
rú hóng gió, hái cờ cỏ lau.
95.
Bữa
cơm chủ yếu là rau,
96.
Cần
lao thuở đó nhuốm mầu tịnh chay.
97.
Một
hôm Sào Nam xem tay,
98.
Bấm
thêm quẻ dịch Đông Tây phán rằng:
99.
Cháu
nên xuất ngoại theo đằng,
100.
Đông du đất nước Thiên hoàng[15]
đảo xa.
101.
Đế
xưa cá tính khoe ra,
102.
Đế
nay kín tiếng sau là phát tâm.
103.
Thượng
thư họ Cao có tầm[16],
104.
Giúp
thầy giáo xóm ngấm ngầm nhưng hay.
105.
Sách
hiếm bổn cũ trao tay,
106.
Khoá
Sắc chăm chỉ bừa cày kinh thư.
107.
Bố
vợ rút ruột nhả tơ,
108.
Những
mong con rể trúng mùa khoa thi.
109.
Năm
đầu khoá Sắc ra đi,
110.
Trình non đành phải trở về trắng
tay.
111.
Kỳ
sau học vị đổi thay,
112.
Thêm
chức Phó bảng[17]đỗ
ngay một chầu.
113.
Kim
Liên sen rộ sắc mầu,
114.
Vinh
quy nhận mảnh đất đầu làng ban[18],
115.
Mái
nhà trên ruộng khoai lang,
116.
Lộc
dân tặng các ông quan về triều.
117.
Mẹ
từng thúng mủng nồi niêu,[19]
118.
Dắt
con vượt núi qua đèo về Kinh.
119.
Huế
nhiều mơ mộng linh tinh,
120.
Ngọ môn vàng vọt bóng hình sông
Hương.
121.
Kiếp
nghèo ai cũng đáng thương,
122.
Đời
sau xúc động ấu vương đói nghèo.
123.
Đom
đóm thả vỏ trứng treo,
124.
Lá
đa đun bếp xèo xèo lửa quăn.
125.
I
tờ học lấy chữ nhân,
126.
Sôi
kinh học phép minh quân nước nhà.
127.
Quan
Sắc hiện tánh hào hoa,
128.
Rượu
trưa trà với quan nha trong Triều.
129.
Lương
quan như gió đuổi diều,
130.
Vợ tần tảo chợ sớm chiều Đông Ba.
131.
Lên
được chức tước đại nha,
132.
Chắc
chắn sung sướng hơn là mụn quan?
133.
Học
phí không miễn hoàn toàn
134.
Thầy
Tây lương bổng hơn đoàn thầy Ta.
135.
Con
quan khác con dân xa,
136.
Phu
đò xe chỉ kiếp nhà cần lao!
137.
Cậu
Thành sung sướng biết bao,
138.
Ăn
mặc no đủ bước vào trường Tây[20].
139.
Học
ba thứ tiếng mỗi ngày,
140.
Pháp-Trung-Việt từ các thầy giỏi
giang.
141.
Ngoại
khoá sinh hoạt dịu dàng,
142.
Ngược
xuôi sông nước đến làng nhiều cau[21].
143.
Đẹp
giai học giỏi gái yêu,
144.
Tình
đầu chớm nở búp đầu bông sen!
145.
Vận
đời lúc đỏ khi đen,
146.
Kim
Kiều[22] bén gót
ngõ quen lối về.
147.
Tang
gia ập đến các thê,
148.
Mẹ
nàng Út sớm cận kề cõi tiên[23].
149.
Mẹ
chàng chưa đến tứ niên,
150.
Ốm đau cô quạnh hết tiền là đi.
151.
Cảnh
nhà đôi lứa biệt ly,
152.
Xuôi
Nam Út chả nói gì với Ba.
153.
Quan
Sắc trở lại ngôi nhà,
154.
Vợ
không còn nữa khóc oà thảm thương.
155.
Vua
bổ tri huyện thôn hương,
156.
Dân
nghèo sinh tặc toàn phường trộm kê!
157.
Tri
huyện hay đuổi trộm về,
158.
Thăng
đường xử án chán chê trộm gà.
159.
Trình
thấp khoác áo quan nha,
160.
Trình cao tiền ít hai là phận
chung!
161.
Thượng
thư họ Cao chỉ dùng,
162.
Quan
nha tài đức đã từng có công.
163.
Phó
bảng không biết lấy lòng,[24]
164.
Dưới
trên nên đã vào vòng khi quân.
165.
Đường
nha đứt áo mũ quần,
166.
Trăm
hèo bổ hạ xuống phần cần lao.
167.
Bài
học cay đắng thuở nào,
168.
Theo
Ba hun hút đi vào đường đua.
169.
Nhẫn
lòng không phải chịu thua,
170.
Một lùi hai tiến ngai vua vững
vàng.
171.
Đạo
dân hay phép làm quan,
172.
Nhẫn
là tàn bạo được quàn cất đi.
173.
Bung
ra đúng lúc, đúng thì,
174.
Nhẫn
thành sấm sét chẳng gì bình yên.
175.
Nén
tình kiểu tu dòng Tên[25],
176.
Mục
sư Man tuýt[26]
trình lên mọi người.
177.
Tiết
dục là cách xả hơi,
178.
Đa
dâm nhục dục là toi tức thì.
179.
Ba
học nhiều bài khắc ghi,
180.
Chân dài, đao búa chi chi mềm
lòng!
181.
Trí
sĩ tánh đó nhiều ông,
182.
Thượng
thư Diệm[27]đã
toàn tòng nguyên trinh.
183.
Gối
chăn đơn chiếc một mình,
184.
Quả
nhân cô quạnh toan rình binh đao.
185.
Chia
xa thành Huế hôm nao,
186.
Hoàng
thành trầm mặc rêu bao xanh mờ.
187.
Nhẩm
ngày nào đó trở về,
188.
Thắp
nhang mộ mẹ xén vê cỏ già.
189.
Chuông
Chùa gióng tiếng ngân xa,
190.
Mái chèo khua nước vân hoa đôi bờ.
191.
Nguyễn
Hoàng mở cõi năm xưa,
192.
Phương
Nam hành tiến đến bờ Hà Tiên.
193.
Bao
đời chúa Sãi, chúa Hiền,...
194.
Trăm
năm gươm phạt lấy miền đất xa.
195.
Trời
Nam dày đức ông cha,
196.
Máu
xương tranh bá, thắng là chính danh.
197.
Theo
hãng kinh doanh Liên Thành[28],
198.
Chàng
làm giáo học Dục Thanh[29] một thời.
199.
Giáo
hoá vào ngả phân đôi,
200.
Tây Tầu, mới cũ chơi vơi học đường.
201.
Số
thầy Thành được trò thương,
202.
Đẹp
giai tài đức tấm gương soi trò.
203.
Biển
xanh nước mặn thấm bờ,
204.
Trò
yêu lắm chuyện bất ngờ ngộ ghê!
205.
Sóng
xô bờ cát sóng vê,
206.
Nã
phá luân[30]
muốn Ăng lê cúi đầu!
207.
Nhìn
xa, con mắt thẳm sâu,
208.
Thoảng
như mắt sói ngửa đầu hóng trăng!
209.
Trò
yêu tay nắm tay giăng,
210.
Tình thương trong sáng thấu chăng
lòng thầy?
211.
Lên
thuyền nước mắm chia tay,
212.
Bờ
xa cát trắng hẹn ngày đón nhau!
213.
Thánh
nhân đã bước lên tàu,
214.
Cát
vùi vướng bận, sóng nhàu ưu tư.
215.
Là
người ai cũng bước đi,
216.
Đích
xa gần đã chắc gì giống nhau?
217.
Giữa
trời cao vút hàng cau,
218.
Ngọn
cao, ngọn thấp trước sau nên tình.
219.
Đời
thường vun vén cho mình,
220.
Đế vương toan tính dân tình đi
theo!
221.
Bến
Rồng[31], xóm chợ
dân nghèo,
222.
Đón
Ba tá túc cho theo phu tàu.
223.
Sài
Côn miền đất đẹp giàu,
224.
Cá
tôm quẫy đạp đục ngầu kinh mương.
225.
Sài
Gòn hội tụ bốn phương,
226.
Ba
Tầu[32] chủ vựa,
Pháp thường đặt mua.
227.
Dân
mình chăm chỉ vẫn thua,
228.
Nước
trong gạo trắng bán như giá bèo.
229.
Pháp
cho thuộc địa đi theo,
230.
Dân chủ tư sản báo treo sạp sàn[33].
231.
Tự
do mua bán thả dàn,
232.
Nhất
là bán dạo tiếng khàn thâu đêm.
233.
Ba
tìm thấy Út vui thêm,
234.
Tình
này xứ Huế êm đềm không phai.
235.
Xưa
nay gái sắc giai tài,
236.
Như
kèo bám cột, như bài thơ hay.
237.
Cha
Út phẫn chí tửu cay,
238.
Cai
đoàn phu cảng tiền dày làm chi?
239.
Tiếng
đờn réo rắt mỗi khi,
240.
Tàu chưa về bến phu thì đói cơm!
241.
Gặp
con Phó bảng vui hơn,
242.
Rượu
đưa tay đẩy nỗi buồn biệt ly.
243.
Quan
trường trong sạch được gì?
244.
Vào
luồn, ra cúi bước đi lưng còng.
245.
Từ
quan, lấy tên Tư Đờn[34],
246.
Biệt
ly xứ Huế đưa con xuôi tàu.
247.
Chủ
cửu hào phóng vẫn giầu,
248.
Chủ
hàng, nhà bến chia mầu rất ngon.
249.
Thói
thường gả chồng cho con,
250.
Sống đời no đủ, sống mòn kiếp nô.
251.
Cậu
Thành yêu Út vô bờ,
252.
Sấm
truyền vận Đế, đành chờ kiếp sau.
253.
Chàng
xin một suất đi tàu,
254.
Văn
Ba[35] tên gọi
buổi đầu xuất dương.
255.
Còi
tàu giục giã lên đường,
256.
Từ
đây phác hoạ đế vương hiện hình.
Phần I :
BẾN NHÀ RỒNG
[1] Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585),
hiệu là Bạch Vân am cư sĩ. Ông đậu Trạng
nguyên khoa thi Ất Mùi (1535) làm quan triều Mạc, ông được phong
tước “Trình Tuyền hầu” rồi thăng tới “Trình Quốc công” mà dân gian quen gọi
ông là Trạng Trình.
[2] Nhà Hậu Lê do Lê Lợi lập ra. Nó
được phân biệt với nhà Tiền Lê (980-1009) do Lê Hoàn lập ra
cuối thế kỷ X. Nhà Hậu Lê gồm 2 giai đoạn:
Nhà Lê sơ (1428 - 1527), do Lê Lợi lập ra, chấm
dứt thời Bắc thuộc lần 4. Nhà Lê trung hưng (1533-1789), tức nhà Hậu
Lê được lập lại năm 1533, tạo ra cục diện Nam Bắc triều với nhà
Mạc (1533–1593).Nhà Hậu Lê không có thực quyền bởi Chúa Trịnh (1545 – 1787)
là một vương tộc phong kiến kiểm soát quyền lực lãnh thổ Đàng Ngoài.
[3] Nguyễn Hoàng (1525 - 1613)
hay Nguyễn Thái Tổ, Chúa Tiên, là vị chúa Nguyễn đầu tiên ở lãnh thổ Đàng Trong, người đặt nền móng
cho vương triều Nguyễn (1802 - 1945).
[4] Chữ Vạn là một hình dạng hình học có nhiều kiểu dáng trên nền
chữ thập + và là một biểu tượng tôn
giáo cổ xưa trong các nền văn hóa của Á-Âu. Nó được sử dụng như một biểu tượng của thần linh và tâm
linh trong các tôn giáo Ấn Độ.
Trong thế giới phương Tây, nó là biểu
tượng của điềm lành và may mắn cho đến những năm 1930, khi nó trở thành một đặc
trưng của biểu tượng Đức quốc xã 卍 như là một biểu tượng của bản sắc
chủng tộc Aryan (Chủng tộc thượng đẳng).
[5].
Lời “Sấm ký” của Trạng Trình “Đụn Sơn phân giải/Bò Đái thất thanh/Thủy đáo Lam thành/Nam
Đàn sinh thánh”. Dịch nghĩa: “Khi núi Đụn phân đôi, khe Bò Đái tiếng khác, sông
Lam khoét vào chân núi Lam Thành, đất Nam Đàn sẽ sinh bậc thánh nhân”. Học giả
Đào Duy Anh (1904 -1988) hỏi ông Phan Bội Châu câu ấy vận vào cụ Phan, Cụ Phan trả lời
không phải tôi mà là Nguyễn Tất Thành,…
[6] Phượng Hoàng Trung Đô là kinh thành do vua
Quang Trung (1752-1792) xây dựng bên
dòng sông Lam và núi
Dũng Quyết; nay thuộc thành phố
Vinh, tỉnh Nghệ An. Tại đây vua
Quang Trung đã tập trung 10 vạn quân trước khi tiến ra Bắc để
giành lại thành Thăng Long lúc bấy giờ đang bị quân Thanh xâm chiếm. Ngôi thành này dự định được
xây dựng để thay thế kinh đô Phú
Xuân.
[7] Cao Biền (821- 887) là một tướng lĩnh triều Đường, Trung Quốc, một nhân vật chính trị, người đầu tiên trở thành Tiết
độ sứ của trong lịch sử Việt
Nam thời nhà Đường đô hộ. Truyền thuyết dân gian ở
Việt Nam kể rằng khi sang Giao Châu, Cao Biền thấy long mạch ở đây rất vượng,
nên muốn phá đi, thường mặc áo phù thủy, cưỡi diều giấy đi khắp nơi để xem địa
thế và phá những nơi có hình thế sông núi đẹp, và chặn những đất có long mạch bằng
cách đào những giếng khơi rất sâu, hoặc giả tảng lập đàn cúng tế để lừa thần bản
địa đến rồi dùng kiếm báu chém đầu, xong đào hào, chôn kim khí để triệt long mạch…
[8] Me, tiếng Nghệ An là con bê.
[9] Nam Đàn tứ hổ: Trong một lần hát ví, một cô gái ghẹo một câu: “Nam
Đàn tứ hổ là ai?/ Nói cho em biết để mai em chào”. Chàng trai Phan Văn San (tên
gọi lúc trẻ của cụ Phan Bội Châu) ứng tác đáp ngay: “Nam Đàn tứ hổ là đây/ San,
Long, Lương, Quý, một bầy bốn anh”. Bốn anh này là: Phan Văn San (làng Đan Nhiệm,
có tài mẫn tiệp ); Nguyễn Đình Song (Xuân Hồ, học hành thâm thúy); Trần Văn
Lương (Kim Liên, trí nhớ tuyệt vời); Vương Thúc Quý (Kim Liên, sắc sảo thông
minh). Tất cả đều hoạt động trong phong trào Duy Tân, nổi bật là Phan Bội Châu.
Dân gian kể “Ngũ hổ” chỉ thêm ông Hồ Sĩ
Tạo (quê huyện Thanh Chương đẹp trai giỏi phú), dạy học ở Nam Đàn, nhiều nghiên
cứu chỉ ra ông là ông nội anh Ba.
[10] Ngọn núi nơi nghĩa quân khởi nghĩa Hương
Khê (1885 -1896)
do Phan Đình Phùng (1847-1895), lãnh đạo, nay thuộc huyện Vũ Quang, tỉnh
Hà Tĩnh.
[11] Phong trào Cần Vương nổ ra vào cuối thế kỷ 19 do đại thần nhà
Nguyễn là Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi đề xướng chống cuộc xâm lược của thực dân Pháp. Phong trào Cần Vương thực chất đã trở thành một hệ thống
các cuộc khởi nghĩa vũ trang trên khắp cả nước, hưởng ứng chiếu Cần Vương của
vua Hàm Nghi, kéo dài từ 1885 cho đến 1896.
[12] Nguyễn Sinh Sắc (1862-1929)
là cha đẻ anh Ba- Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh là Chủ tịch đầu tiên của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông Nguyễn
Sinh Sắc đỗ cử nhân từng làm quan hành tẩu bộ Hộ, sau thi đậu Phó bảng
năm Tân Sửu (1901), năm đó ngày 22 tháng
12 năm Canh Tý (10 tháng 2 năm 1901) bà Hoàng Thị Loan mẹ ruột Hồ Chí Minh, ốm
mất ở Huế khi ông Sắc đang đi coi ở Thanh Hóa.
[13] Cụ Hoàng
Xuân Đường ở làng Hoàng Trù (cha đẻ bà Hoàng Thị Loan) là đời thứ 19 của họ
Hoàng. Gia phả ông tổ là Hoàng Nghĩa Kiều (1540-1587) là đời thứ 6 của dòng họ
Hoàng làng Vân Nội, xã Hồng Tiến, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, Ông là quan
võ của nhà Lê. Năm Đinh Tỵ (1557), quan Thái phó Hồng Quốc Công Hoàng Thế Kiều
vâng lệnh vua đem quân vào Nghệ An dẹp quân nhà Mạc.
[14] Xô Viết Nghệ-Tĩnh là
tên gọi chỉ phong trào đấu tranh của lực lượng công nhân và nông
dân ở Nghệ An và Hà Tĩnh trong
năm 1930-1931 chống lại đế quốc Pháp tại Việt Nam.
Tên gọi Xô viết Nghệ Tĩnh xuất phát từ sự hình thành các "xã bộ nông"
mà những người cộng sản gọi là
"Xô viết".
[15] Thiên hoàng còn
gọi là Ngự môn hay Đế là tước hiệu của người được tôn là Hoàng đế ở Nhật Bản. Phan Bội Châu- Sào Nam muốn
anh Ba qua đó du học.
[16] Cao Xuân Dục (1843-1923) là một quan đại thần của triều đình nhà Nguyễn, Việt Nam, từng làm tổng đốc, thượng thư và Đông
các đại học sĩ, tổng tài Quốc sử
quán. Ông có cảm tình với Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc.
[17] Học vị này có từ năm 1829- 1919. Vua Minh Mạng quy định đỗ đại khoa chia thành hạng
Chính bảng (hạng trên: gồm Cập đệ, Hoàng giáp, Tiến sĩ) và Phó bảng (hạng dưới).
[18] Là ngôi nhà lá 5 gian được dân làng
Sen quê nội Hồ Chí Minh dựng lên từ quỹ công của dân làng để mừng ông Nguyễn
Sinh Sắc khi ông đỗ phó bảng khoa thi Hội năm 1901. Cụ Nguyễn Sinh Sắc dành hai
gian để đặt bàn thờ bà Hoàng Thị Loan và để tiếp khách. Khi về thăm quê, Bác cười
nói “Đây là nhà của Cụ Phó bảng chứ
có phải nhà
Bác Hồ đâu”.
[19] Vào năm 1898,
nhờ sự vận động của ông Hồ Sĩ Tạo với các quan lại đồng liêu quen
biết ở triều đình Huế, Nguyễn Sinh Sắc được nhận vào học Quốc Tử Giám. Nguyễn
Sinh Sắc, đổi tên là Nguyễn Sinh Huy, đem vợ và hai con trai vào Huế và đi học
Quốc Tử Giám.
[20]Hồ Chí Minh có tên là Nguyễn
Sinh Côn và được nhận vào Quốc Học Huế vào ngày 7 - 8 -1908. Trường Quốc Học (tên chính thức
hiện nay: Trường Trung học Phổ thông Chuyên Quốc Học) là một ngôi trường nổi tiếng
ở cố đô Huế, thành lập vào ngày 23 tháng 10 năm 1896.
[21] Thôn Vỹ Dạ nay là một phường thuộc thành
phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Nguyên thủy địa danh này là Vi Dã có nghĩa là "cánh đồng
lau sậy" nhưng vì biến âm đọc trại lâu ngày mà thành Vĩ Dạ.
Theo Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, thì vào thế
kỷ 18 thời các chúa Nguyễn là đất thuộc các làng xã Vỹ Dã Thượng, Vỹ Dã Hạ,...
tổng Vỹ Dã, huyện Hương Trà, phủ Triệu
Phong, xứ Thuận Hóa.
[22] Nhân vật trong Truyện Kiều của đại
thi hào Nguyễn Du kể lại cuộc đời,
những thử thách và đau khổ của Thúy Kiều, một phụ nữ trẻ xinh đẹp và tài năng,
phải hy sinh thân mình, lỡ mối duyên với Kim Trọng để cứu gia đình.
[23] Bà Lê Thị Huệ (189? - 1981), gọi
thân mật là Út Vân, Út Huệ: (Trong thời gian đó, trò chuyện với Huệ, chị em hiểu
nhau, và O mới biết Huệ là người thương của cậu Thành. Hai người đã có một tuổi
thơ gắn bó từ hồi ở Huế. Cha Huệ (Lê
Quang Hưng) làm bên bộ Công. Huệ mất mẹ. Thành cũng
mồ côi mẹ. Cha O thì không tục huyền. Cha Huệ sau tục huyền với một người phụ nữ
Huế, bà ta đanh đá, cảnh nhà không vui. (lời bà Nguyễn Thị Thanh chị ruột Nguyễn
Tất Thành)
[24] Ngày 19 tháng 5 năm 1910, Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc làm tri huyện Bình Khê
(nay là xã Tây Giang, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). bị đưa về kinh xét xử vì
các tội: Để tù chính trị phạm vượt ngục; Hà khắc với hào lý; Bênh vực dân đen;
Không thu đủ thuế,…bị Triều đình phạt đánh 100 trượng. May nhờ có các ông
Thượng thư Hồ Đắc Trung, ông Cao Xuân Dục (1842-1923) và Đào Tấn cùng dập
đầu xin vua tha chết nhưng bị hạ bốn cấp quan và sa thải.
[25] Dòng Tên (còn gọi là Dòng Chúa Giêsu) của Giáo hội Công giáo do ông Inhaxiô người xứ Basque Tây Ban Nha, cùng một số bạn hữu sáng
lập và được Giáo hoàng Phaolô III phê chuẩn năm 1540.
[26] Thomas Robert Malthus (1766 - 1834)
là một nhà nhân khẩu học, nhà kinh tế học người Anh. Thuyết dân số của
ông với quy luật tăng dân số 1% thì sau mỗi 70 năm, dân số sẽ tăng gấp đôi. Nếu
với tỉ lệ 2% thì dân số tăng gấp đôi sau mỗi 35 năm và các biện pháp ổn định
dân số.
[27] Ngô Đình Diệm (1901- 1963) làm quan thượng
thư nhà Nguyễn thời vua Bảo Đại, sau đó làm Thủ tướng cuối cùng của Quốc gia Việt Nam, rồi trở thành Tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa, ông không lấy vợ.
[28] Một tổ chức
kinh doanh do các sĩ phu yêu nước ở Bình Thuận sáng lập vào
năm 1906 để hưởng ứng phong trào Duy Tân. Tên Liên Thành được lựa
chọn với ngụ ý bảo tồn truyền thống, có ý nghĩa là thành hoa sen, nguyên là tên
cũ của tỉnh Bình Thuận.
[29] Dục
Thanh Học hiệu (Giáo Dục Thanh Thiếu Niên) là một ngôi trường
do các sĩ phu yêu nước ở Phan
Thiết, Bình Thuận sáng lập vào
năm 1907. Đây cũng là ngôi trường mà Nguyễn Tất Thành đã dừng chân dạy học một thời gian
trước khi vào Sài Gòn trong chuyến
xuất ngoại.
[30] Napoleon Bonaparte (1769 – 1821)
nhà lãnh đạo quân sự, Hoàng đế Pháp với
đế hiệu là Napoleon I từ năm 1804 đến năm 1814 và
trở lại ngôi vua vào năm 1815
trong 100 ngày trị vị.
[31] Bến Nhà Rồng, thành phố Sài Gòn, trụ sở của hãng vận tải Messageries Maritimes từ năm 1864 -1955;
ngày 5- 6 - 1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã xuống con tàu Amiral
Latouche Tréville làm phụ bếp để có điều kiện sang châu Âu, mở đầu hành trình cách mạng của
mình.
[32] Chỉ người Hoa sang Việt Nam định cư. Có
nhiều cách lý giải cách gọi nhưng không thuyết phục.
[33] Khai sinh sớm
nhất trong làng báo Quốc ngữ Việt Nam được cho là Gia Định báo. Tờ báo tổng hợp này có
khuôn khổ 25 x 32 cm, ra hàng tuần tại Sài Gòn và tồn tại suốt 44 năm sau
khi phát hành số đầu vào ngày 15 tháng 4 năm 1865.
[34] Cha Út Huệ, gọi theo cách Nam Bộ.
[35] Tên tự xưng Nguyễn Tất Thành, nhân vật
chính trong Trường ca. Ngày 5-6-1911
Nguyễn Tất Thành dời Việt Nam làm việc trên một chiếc Tàu Pháp Amiral Latouche Tréville. Trong sổ lương của tàu có tên Văn Ba.