Trường ca Hồ Chí Minh. Phần II Bôn ba ( 1201- 1500)
+++++
1201.Tinh thần độc lập đặt trên
Lịch sử đất Việt triền miên chống
thù
Mượn Tầu tạm lập chiến khu
Hải ngoại cách mạng từ xưa nay rồi
Chiến tranh khói lửa ngút trời
Tây phát xít Đức, Đông thời Ja pan
Bĩ cực chồng chéo thế nan
Rất cần sấm Trạng nổ vang lúc này
Hồ Quang tranh thủ từng ngày
1210. Đọc kinh Lão tử[1]
xem tay Trạng Trình
Xem lời cha tặng chữ
"Minh"
Lần bùa sư Phạn đoán tình thế Ta
Hải Thần[2] thích xem
chân gà
Học Lãm[3] dân quốc
đoán già đoán non
Thái lai thử thách cô đơn
Hồ Quang thấy quẻ Càn Khôn[4] vào mình
Hội Tam phán đoán đồng minh
Thắng quân phát xít bằng hình phạt
cao
Tiền bạc lặng lẽ chuyển vào
1220. Cho các dự án máu trào Á Đông
Chiến tranh dịch chuyển xoay vòng
Về nơi lạc hậu thử lòng các bên
Lái súng kiếm chác nhiều tiền
Thế giới phân cực thánh hiền về
đâu?
Hồ thiếu tá hiểu rất sâu:
Gia Long[5] lập chiến
khu đầu phía Nam
Đảo xa đất Phật Xiêm, Cam
Hai mươi năm chiến đánh tan Quang
Bình[6]
Nguyễn Vương từ thuở bình sinh
1230. Mang vào nghiệp đế nâng trình đánh nhau
Nã phá luân lên ngôi đầu
Ngạo mạn chinh chiến thua đau vận
tàn
Hồ Quang toan tính rõ ràng
Theo Đồng minh đánh Nhật hoàng là
hay
Tưởng Mao biết rõ tay này
Ân tình thả xuống những ngày tù
lao
Thiếu tá hai gạch một sao
Hồ Quang số má đỉnh cao ngút trời
Lâm Lan từng rủ đi chơi
1240. Vào rừng thi bắn Ba thời điểm cao
Võ biền thử thách anh hào
Bù nhìn rơm cháy chúng chào sư
huynh
Giáo Văn[7] yếu ớt đòm
uỳnh
Già Thu[8] thấy Giáp
nhẫn hình vòng khuyên
Chiến tranh lúc tỉnh khi điên
Nướng quân như chả sau thiền tỉnh
bơ
Dụng nhân nào đứng dưới cờ
Bản bộ ngõ ngách giang hồ đi theo
:
Tử Phòng[9] thấy huyện
Bái reo[10]
1250. Nguyên Hãn[11]
Bạch Hạc thuyền chèo Lam Sơn
Lệ thường lấy chức trả ơn
Công lao chia thổ lớn hơn "đao
điền"[12]
Muốn tu thành bậc thánh hiền
Cõi người phải hóng khắp miền chúng
dân
Sau này như thế Việt gian
Khi ấy là những sĩ quan quân Tầu
Tình yêu tim đặt lên đầu
Gặp Lâm Lan ở Quảng Châu xong rồi
Danh sách đồng hương của tôi
1260. Cấp hàm chinh chiến nhiều nơi bắn đòm
Gặp nhau xiết vòng tay ôm
Tính về Tổ quốc một hôm đẹp trời
Chí Kiên[13] cứng rắn
tuyệt vời
Thiết Hùng[14] đã một
góc đời chiến tranh
Nguyên Bác[15] vạn lý
trưởng thành
Văn chương võ giúp đàn anh chưa về
Văn Thụ[16] thao lược
rất ghê
Mật thám Pháp đã về quê rình mò
Văn Cáp[17] trong
sáng ngây thơ
1270. Chất người mỏ sắt biết thờ chính nhân
Tư tưởng cách mạng phải gần
Cần lao công xưởng Nam phần nhiều
hơn
Xứ uỷ Nam kỳ rất khôn
Gieo mầm khởi nghĩa Ba Son, Phú Riềng
Sỹ phu Bắc Hà niềm riêng
Xuân Khu[18], Hạ Bá[19] rất siêng
né thù
Đời sau không rõ thực hư
Đấu tranh dũng cảm lao tù tất
nhiên
Trách ham sống thích nhiều tiền
1280. Như Ngô[20]
thường vụ uỷ viên đầu hàng
Trách gì đối lập trái ngang
Xưng hùng tranh bá phải phang đến
cùng
Bắc Sơn rừng núi điệp trùng
Chu[21] hùm sám nổi
Tây từng phát kinh
Thái Nguyên Đội Cấn[22] tự mình
Làm cuộc binh biến tình hình đổi
thay
Đô Lương[23] cảm hứng
mê say
Ba Tơ[24] nổi dậy rừng
dầy chở che
Tranh hùng khí thế rất ghê
1290. Chặt cây vướng mấu, chẻ tre gặp gờ
Anh em hải ngoại không chờ
Trâu chậm cỏ bụi nước bờ đục hoen
Hải Thần xem chân gà đen
Phán rằng Nhật Bản sớm chèn Phá
Lang
Để cho hổ đấu tan hoang
Theo Đồng minh chống xâm lăng hợp
thời
Tống Khánh kêu gọi mọi người
Chống quân phát xít khắp nơi địa cầu
Tống Mỹ[25] phu nhân
sang chầu
1300. Quốc hội Mỹ quyết lập cầu hàng không
Giúp Tưởng Thống chế lập công
Mao quân nghênh chiến nhưng không
hao mòn
Hồ Quang đi lại mỏi mòn
Hai bên Mao Tưởng thông ngôn rõ
ràng
Tưởng nhìn thấy chỗ quá giang
Dạt vòm Bắc Việt mở mang đất Tầu
Mao tin chất cộng trong đầu
Hồ Quang bạn hữu dài lâu sâu bền
Nhờ Lâm Y Lan nhận
tiền
1310.Lương hàm thiếu tá uỷ quyền ký danh
Đến năm Kỷ Dậu,
Hoàng Tranh[26]
Giáo sư cho biết
vẫn thanh toán đều
Có thời Ba thiếu
tiền tiêu
Viết thư kể khổ
như liều thuốc tiên
Nhà băng Đông
Dương cảm phiền
Vẫn lưu tài khoản
đến nghìn năm sau
Trước ngày anh Ba
xuống tàu
Ngoại tệ cục lớn
đã chầu nhà băng
Tư Đờn Cha của Út
Vân
1320.Chăm nuôi phu cảng tối gần một chai
Cổ xưa cái chuyện
tiền tài
Không tiêu tán hết
đất xài biến đi
Ông Trần[27] bốc
đúng quẻ "tuỳ"
Năm thìn rồng
khát gặp thì hanh thông
Ba ba cắt tiết
vài con
Gà giò một túm tụ
đồng chí ta
Con đường xuống
núi thông qua
Đông Nam hành tiến
sớm ra thái bình
Hội Tam bắt mạch
rất kinh
1330.Vào năm Ất Dậu tình hình đổi thay
Hoa Kỳ, Tàu Tưởng
chung tay
Đánh Nhật mở cứ địa
đầy Côn Minh
Căn cứ này khá
yên bình
Đội đặc nhiệm Mỹ đóng
dinh nơi này
Ông Trần tạo thế
cờ hay
Về hang Cốc thử ớt
cay cỡ nào?
Không qua được mắt
Tưởng Mao
Mà trúng kế đánh
người vào nước Nam
Thổ dân, thổ phỉ
rất ham
1340.Con đường buôn bán rộng hàm lại qua
Chàng trai sơn cước
Quảng Ba[28]
Gốc Kinh bạt xứ
thật thà giao liên
Ông Trần sẵn sàng
chi tiền
Đô, Bảng, Quan tệ
sang Yên Nhật hoàng
Tiền tạo sức mạnh
phi thường
Ngàn xưa mãi lộ
con đường lụa tơ
Văn Thụ tạm quyền
chức to
Hội nghị lần Tám trưởng
trò về hang
Xuân Khu cùng với
Bá Cang
1350.Sỹ phu đất Bắc lên hàng Trụ to
Già Thu[29] râu
phún lơ phơ
Được gọi là
"Bác"[30]
từ bờ suối Lin
Nghị quyết lập Tổng
Việt minh:
Địa hào trí phú
chúng mình đánh Tây
Đuổi Nhật bảo vệ
dân cày
Doanh gia yêu nước
chung tay góp tiền
Học sinh cùng
thanh thiếu niên
Phụ nữ, lão ấu, đạo
Thiên, Phật, Hoà…
Công nhân truyền
hịch to loa
1360.Việt minh vận động muôn nhà đánh Tây !
Cài người ở khắp
đó đây
Truyền đơn như sấm
báo ngày bão giông
Cháu Trưng, cô
Ngát[31]
giàu lòng
Mến yêu cụ Ké[32] như
ông thánh hiền
Rau măng cháo bẹ
ngô nghiền
Ba ba, cá suối
rau giền nấu canh
Vòm hang nước thấm
rất nhanh
Đô la ẩm ướt Cụ
đành đem phơi
Chông chênh tảng
đá ngoài trời
1370.Gác tiền, canh bạc Cụ ngồi thả câu
Dịch luôn sử Đảng
Nga, Tầu
Dự các đồng chí đứng
đầu quân Ta
Bên Tầu có trát mời
qua
Mua rẻ vũ khí nhận
quà Hội Tam
Sóng Hồng bận,
không đi sang
Bá Cang trở lại địa đàng Từ Sơn
Rùa suối hôm đó đói cơm
Cắn câu, cháu Ngát vội đơm về lò
Cụ bật dậy như lò so
1380.Xem mai rùa[33]
thấy phải vò vè bay
Hành trang sửa soạn đi ngay
Phục trang ông lái buôn Tày quá
giang
Quảng Ba khăn gói vác mang
Giữa đường trượt ngã vội vàng
thoái lui
Khoai chấm mật, số ngọt bùi
Quân Tưởng bắt được chúng vui vô
cùng
Lì xì Tôn tệ chúng mừng
Tướng lĩnh quân Tưởng đã từng nghe
danh
Thống chế nhận ra rất nhanh
1390.Sau là Nhật ký ngục xanh tháng ngày
Quê nhà đợi cánh hạc bay
Phong trào trong nước nhẹ chày giữ
sân
Tin vào thánh, dựa vào thần
Manh động cách mạng là dân ốm đòn
Sóng Đỏ không kém trí khôn
Sĩ phu thế thủ giải buồn làm thơ
Hồ ca bị Tưởng
nghi ngờ
Gián điệp Nhật Bản
đang chờ lấy tin
Thẻ báo chí cộng
tác viên
1400.Có bài chống Nhật đăng liền mấy trang
Hồ sơ yếu nhân rõ
ràng
Tưởng sợ ám sát vội
vàng chuyển đi
Qua nhiều lao
khám ly kỳ
Cả trại tị nạn
dân quy hàng Tầu
Trí thức rủ rê
nhà giàu
Bỏ Mao theo Tưởng
từ đâu kéo về
Thường phạm cộm
cán rất ghê
Vào tù cờ bạc luyện
nghề phạt nhau
Biệt danh tù nhân
Min râu
1410.Tiếng Nga, Pháp, Mỹ, Việt, Tàu nói nghe
Thư pháp múa như
rồng tre
Tiếu lâm kim cổ
tù mê Min rồi
Đại bàng, đầu gấu
có nhời
Dạ thưa, nhường
nhịn, kính mời cao lương
Chúng tù bắt rận
chiếu giường
Tầm quất, điếu
đóm ngày thường tù lao
Một hôm Min nhận
quà trao
Cai tù kính cẩn
xin chào đại ca
Bọc quà từ từ mở
ra
1420.Sách Thống chế tặng, bút và giấy biên
Bì thư bự một xấp
tiền
Đồ dùng thức nhắm
rượu truyền tay nhau
Wis ky, Cô nhắc,
Đài Tầu
Tù nhân được bữa
cực ngầu nhà pha
Thuốc lá cà phê đạo
trà
Đi cung mỗi sáng
Min ra ngoài trời
Làm thơ chữ Hán tuyệt
vời
Tù mà như thế suốt
đời tù lao
Nhưng Min thân thể
thanh tao
1430.Đường thi bát cú vận vào thánh nhân
Bọn tù thấy thế
theo chân
Đi xia chúng cũng
cằn nhằn ra thơ
Tránh tù cộm cán
điên rồ
Giải Min đi sớm bất
ngờ ai hay
Hội Tam điểm đã
ra tay
Nhờ tướng quân Tưởng
: Min này phải giam
Thả ra hỏng việc Nước
Nam
Để ma tù, những
việc làm toi ngay
Sư Phạn cử đến một
thày
1440.Nói rằng bùa ngải Min này đã theo
Quê nhà ảnh Cụ đã
treo
Lễ Truy điệu Đế cảnh
nghèo buồn thương
Thầy mo mang đến
bó hương
Bùa phướn một mớ
lợn mường một con
Tin từ một tay
lái buôn
Chuyển tờ nhật
báo chữ tuôn bên lề
Anh em vui sướng
tê mê
Quay lợn chén, đợi
Cha về cầm binh
Tưởng giao cho Hầu Chí Minh[34]
1450.Chủ nhiệm chính trị quyền hình xét tra
Hầu mới chớm tuổi người già
Thích nghe Hồ kể nước Nga bắn đòm
Chuyện tộc Cờ-rô-ma-nhom
Quan hệ tình ái kiểu tòm tem nhau
Hầu xướng kinh kịch nhạc Tầu
Van-xơ Hồ lướt mấy chầu rượu ngon
Liễu Châu thiên cảnh mê hồn
Chú Hầu dâng rượu lên hòn đá chông
Hầu rằng: Học Lãm có công
1460.Với Tưởng Thống chế đồng môn năm nào
Tình báo Tưởng bên quân Mao
Khen Hồ thiếu tá trình cao đức dầy
Nhật thua tính tháng, đếm ngày
Quốc Cộng hợp nhất bắt tay ôn hòa
Hầu mong Hồ sớm đại ca
Nước Nam, nước Bắc chúng ta yên
bình
Phát Khuê[35] tướng Tưởng
có tình
Dự phóng thích bạn Chí Minh trở về
Lập căn cứ địa ở quê
1470.Giúp Đồng minh Mỹ đánh về phía Nam
Chuyện Hầu toan vít cành cam
Gắp lửa chinh chiến chuyển sang nước
nhà
Người Tầu chờm hớp rất xa
Lưỡng nghi, tứ tượng chúng là bậc
trên
Chén anh, chén chú dâng lên
Hồ rằng: Độc lập vững bền như xưa
Anh về đất nước làm vua
Đón em sang Việt nhặt thưa trống
chèo
Á Đông mình rất là nghèo
1480.Nhưng mà chớ vội đi theo nước người
Anh qua Âu Mỹ rong chơi
Kiểu chúng ăn ở đứng ngồi khác ta
Hàu chủ nhiệm: kính đại ca
Trăng tàn rặng liễu mờ xa cuối rừng
Đồng minh khí thế tưng bừng
Đánh Nhật đuổi Pháp trùng trùng
quân đi
Tiêu Văn[36], Phát
Khuê thầm thì
Nháy Hầu Chủ nhiệm mạnh chi bạc tiền
Hồ đi rất nhiều biên duyên
1490.Gặp các tướng lĩnh ở bên Tưởng Tầu
Mùa hè ở trấn Liễu châu
Chiến khu Dân quốc xanh mầu cỏ non
Nguyễn Du xưa tựa lầu son
“Bắc hành Tạp lục”[37] gợi hồn
Kiều ca
Anh em trong nước lại qua
Vào trường quân chính Tưởng- Ta kết
đoàn
Vẫn bài lý luận không mòn
Vẫn bài du kích chui luồn đánh
nhau
Lớp học có vài tướng Tàu
1500.Dự giờ thích quá cái đầu anh Ba
[1] Lão Tử (571 TCN - 471 TCN) là một nhân vật chính yếu
trong Triết học Trung Quốc, sự tồn tại của ông trong lịch sử hiện vẫn đang
còn được tranh cãi. Lão Tử được coi là người viết Đạo đức kinh
[2] Nguyễn Hải Thần (1869 -1959)
là một nhà cách mạng chống Pháp, người sáng lập và lãnh đạo Việt Nam
Cách mệnh Đồng minh Hội (Việt Cách). Nguyễn Hải Thần giữ chức Phó Chủ tịch
trong Chính phủ Liên hiệp.Tháng 7 năm 1946, khi tranh chấp
giữa Việt Minh và các phe phái đối lập xảy ra, Việt Minh tấn công lực
lượng của Việt Cách, Nguyễn Hải Thần phải sang Trung Quốc rồi đến Hồng Công lưu vong.
[3] Hồ Học Lãm (1884 - 1943) là một chí sĩ Việt Nam thời cận đại.Ông là bạn học với
Tưởng Giới Thạch ở trường Võ bị Bắc Kinh, làm sĩ quan cao cấp trong quân đội
Quốc dân Đảng.
[4] Quẻ Càn là trời (dương), ký hiệu ba vạch (≡) , quẻ Khôn là đất (âm) ký hiệu vạch ba vạch đứt (≡
≡). Quẻ Càn Khôn, xếp trên Càn dưới Khôn, có nhiều cách chú dịch quẻ này :
"Nhất âm nhất dương chi vị đạo" (một âm một dương gọi là Đạo).
[5] Gia Long (1762 -1820), tên
húy là Nguyễn Phúc Ánh,
gọi tắt là Nguyễn Ánh (Nguyễn
Vương) là nhà chính trị, nhà quân sự, vị hoàng đế sáng lập nhà
Nguyễn, triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt
Nam. Ông trị vì từ năm 1802 đến khi qua đời năm 1820.
[6] Quang Trung Hoàng đế (1753 - 1792),
danh xưng khác là Bắc Bình Vương,
tên khai sinh là Hồ Thơm, sau đổi tên thành Nguyễn Huệ, Nguyễn
Quang Bình, là nhà chính trị, nhà quân sự và là vị hoàng đế thứ
hai của Nhà Tây Sơn.
[7] Võ Nguyên Giáp (25 -
8 năm 1911- 4 tháng 10 - 2013), tên khai sinh
là Võ Giáp, còn được gọi
là tướng Giáp hoặc anh Văn, là một nhà chỉ huy quân sự và
chính trị gia Việt Nam. Ông được bình chọn là một trong 100 vị tướng xuất
sắc nhất mọi thời đại, và cũng là một trong những nhà quân sự vĩ đại nhất lịch
sử hiện đại. Ông là Đại tướng đầu tiên, Tổng Tư lệnh của Quân đội
nhân dân Việt Nam… Tháng
5 năm 1939, Võ Nguyên Giáp nhận dạy môn lịch sử tại Trường
Tư thục Thăng Long, Hà Nội.
[8] Tên gọi anh Ba ở Pắc Bó năm 1941.
[9] Trương
Lương (250 TCN - 186 TCN), biểu tự Tử Phòng là danh thần khai quốc nổi tiếng
thời nhà Hán. Ông cùng với Hàn Tín, Tiêu Hà được người đời
xưng tụng là Hán sơ Tam kiệt,
đóng vai trò quan trọng giúp Lưu Bang đánh đổ nhà Tần và thắng Hạng
Vũ trong chiến tranh Hán Sở, sáng lập ra nhà Hán trong lịch
sử Trung Quốc. Ông thường được xếp vào hàng ngũ 10 đại quân sư kiệt xuất nhất lịch
sử phong kiến Trung Quốc, đứng thứ 3 sau Tôn Vũ, Tôn Tẫn và đứng
trên các bậc quân sư kiệt xuất khác như Gia Cát Lượng, Lưu Bá Ôn. Vì
thế, hậu nhân hay gọi ông là Mưu
Thánh.
[10] Huyện Bái (nay
là huyện Phong thuộc tỉnh Giang Tô), tên gọi Lưu Bang tức Hán Cao Tổ (256
TCN -195 TCN), là vị hoàng đế khai quốc của triều
đại nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông ở ngôi Hoàng đế được 8
năm (202 TCN -195 TCN).
[11] Trần Nguyên Hãn (1390 - 1429) là nhà quân sự Đại Việt thời Lê sơ. Ông là người thuộc dòng dõi nhà Trần là con cô con cậu với Nguyễn Trãi, cùng Nguyễn Trãi tham gia khởi nghĩa Lam Sơn. Ông từng giữ chức Tư đồ,Thái úy, chỉ huy các trận đánh giải phóng Tân Bình, Thuận Hóa (1425-1426), bao vây Đông Quan, công phá thành Xương Giang và chặn đường tiếp tế của quân Minh trong chiến dịch Chi Lăng-Xương Giang (1427). Cuộc khởi nghĩa thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế (1428). Trần Nguyên Hãn được phong làm Tả tướng quốc. Nhưng về sau vì tính đa nghi, Thái Tổ bắt tội ông, khiến ông tự sát ở Bạch Hạc. Đến đời Hoàng đế Lê Nhân Tông, ông mới được ân xá và khôi phục chức vị.
[12] Vua Lý Thái Tông định công ban thưởng cho Lê Phụng Hiểu, Lê Phụng hiểu thưa rằng: “Thần không muốn thưởng tước, chỉ xin cho về ở núi Băng Sơn (huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa nay), ném dao lớn đi xa, dao rơi đến chỗ nào trong đất công thì xin ban cho làm sản nghiệp”. Vua nghe theo Phụng Hiểu lên núi, ném dao xa đến hơn mười dặm. Vua lấy số ruộng ấy ban cho, tha thóc thuế cho ruộng ném dao ấy. Vì vậy, người Châu Ái gọi ruộng thưởng công là ruộng ném dao”.
[13] Phùng Chí
Kiên (1901-1941) là nhà hoạt động
cách mạng và quân sự Việt Nam. Năm 1994, liệt sĩ Phùng Chí Kiên được truy tặng
Huân chương Chiến công hạng ba. Hơn 62 năm sau ngày mất, tháng 11 năm 2003, ông
được Chính phủ Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam ra quyết định phong là cán bộ
quân đội cấp tướng.
[14] Thiếu tướng Lê Thiết Hùng (1908 -1986)
nhà hoạt động cách mạng, là vị tướng được phong quân hàm đầu tiên của Quân
đội nhân dân Việt Nam.
[15] Nguyễn Sơn (1908-1956) là một trong những người Việt
Nam được phong quân hàm cấp thiếu tướng đợt đầu tiên vào
năm 1948. Ông cũng được Trung Quốc phong quân hàm tướng vào
năm 1955 nên ông được gọi là Lưỡng quốc tướng quân. Là vị tướng văn võ song toàn.
[16] Hoàng Văn
Thụ (1909 - 1944) là nhà
lãnh đạo cao cấp của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, người có đóng
góp lớn vào phong trào cộng sản Việt Nam và là nhà thơ cách mạng Việt
Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.
[17] Đặng Văn Cáp (1894-1984) một chiến
sĩ cách mạng kiên trung, người cận vệ đầu tiên của Bác Hồ, người thầy thuốc tận
tâm, tận tụy.
[18] Trường
Chinh (1907 - 1988), tên
khai sinh là Đặng Xuân Khu,
là một chính khách Việt Nam. Ông giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng
Nhà nước Việt Nam từ năm 1981 đến năm 1987. Tổng Bí thư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (lần thứ nhất: 1941 - 1956, lần thứ hai:
1986), Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1960 - 1975) và Chủ tịch
Quốc hội (khóa V, VI), là một nhà thơ cách mạng với bút danh Sóng Hồng.
[19] Hoàng Quốc Việt (1905-1992), ông tên thật là Hạ Bá Cang giữ chức Bí thư Tổng bộ Việt Minh, Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ.
[20] Ngô Đức Trì (1901-1941), Ủy viên, Ủy viên Thường vụ Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam được bầu tại Hội nghị tháng 10-1930. Ông là con trai của nhà cách mạng Ngô Đức Kế.
[21] Chu Văn Tấn (1909 - 1984), Thượng tướng Quân đội nhân
dân Việt Nam. Ông nguyên là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong Chính phủ
lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, là người tham gia lãnh đạo khởi nghĩa
Bắc Sơn năm 1940 khi quân Nhật tấn công Pháp ở tỉnh Lạng Sơn.
[22] Đội Cấn, hay Ông
Đội Cấn (1881 - 1918) là biệt danh của Trịnh Văn Cấn, một thủ lĩnh trong cuộc
binh biến chống chính quyền thực dân Pháp tại Thái
Nguyên năm 1917.
[23] Ngày 13 -1 - 1941, dưới sự chỉ huy của
Đội Cung (Nguyễn Văn Cung), binh lính đồn Chợ Rạng (Thanh Chương, Nghệ An) đã nổi
dậy chống lại thực dân Pháp. đánh chiếm đồn Đô Lương.
[24] Khởi nghĩa
Ba Tơ là cuộc nổi dậy giành chính
quyền của quân dân châu Ba Tơ thuộc tỉnh Quảng Ngãi, nổ
ra ngày 11 -3 -1945, sau 2 ngày Nhật đảo chính Pháp ở Việt Nam.
[25] Tống Mỹ
Linh, cũng được gọi là Bà Tưởng Giới Thạch (1897 - 2003) là một trong 3 chị em họ Tống và được
mô tả là người yêu quyền lực.
[26] Hoàng Tranh (nguyên Phó Viện trưởng
Viện Khoa học xã hội Quảng Tây, Trung Quốc) tác giả bài “Hồ
Chí Minh với người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” tạp chí Đông Nam Á Tung hoành (Dọc ngang
Đông Nam Á), số tháng 12 năm 2001, xuất bản tại Nam Ninh, Trung Quốc mang tính
giả thuyết tính tiểu thuyết. Cuốn “Hồ
Chí Minh dữ (thân) Trung Quốc” Giải
Phóng Quân xuất bản xã, 1987 cho biết Hồ Chí Minh có tổng thời gian 17
năm ở Trung Quốc...
[27] Cuối tháng 2 năm 1940, Nguyễn Ái Quốc
với bí danh Ông Trần đến hiệu dầu cù là Vĩnh An Đường ở Côn Minh, Vân Nam,
Trung Quốc, bắt liên lạc với tổ chức cộng sản Việt Nam ở Vân Nam để từ đó tìm
cách trở về nước.
[28] Lê Quảng
Ba (1914-1988) là một tướng lĩnh người Tày đầu
tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Tư lệnh đầu
tiên Quân khu Việt Bắc. Ông là một trong những người đã đưa Hồ Chí
Minh từ Trung Quốc về nước đầu năm 1941, chịu trách nhiệm nơi ăn, chốn ở,
nơi họp và bảo vệ Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ
8.
[29] Tên gọi Nguyễn
Ái Quốc năm 1941 tại hang Pắc Bó.
[30] Tên gọi
“Bác” xuất hiện từ dịp họp hội nghị Trung ương lần thứ 8, tháng 5 năm 1941 ở Pắc
Bó, Hà Quảng, Cao Bằng.
[31] Nông Thị Trưng, có tài liệu
ghi Nông Thị Ngát (1920 -2003),
trong vòng 8 tháng vào năm 1941-1942, bà đã làm giao liên cho "Già
Thu", bí danh của Hồ Chí Minh lúc đó. Bà từng giữ chức Chánh
án Toà án nhân dân Tỉnh Cao Bằng.
[32] Tên gọi Hồ
Chí Minh cuối tháng 4 năm 1945 ở Cao Bằng
[33] Từ hàng ngàn năm trước người Trung Quốc xem
“Bói mai rùa” đoán cát
hung trong những sự kiện quan trọng.
[34] Hầu Chí
Minh (1896-1980), Thiếu tướng, Trung tướng, Chủ nhiệm Cục Chính trị Chiến khu 4 của Trung hoa Dân quốc, người đã trực tiếp thả Hồ Chí Minh theo lệnh của Tưởng Giới Thạch.
[35] Trương Phát Khuê (1896-1980),
Thượng tướng quân đội Trung Hoa Dân Quốc, tham gia Bắc phạt, nổi tiếng
trong binh biến Nam Xương. Trong chiến tranh kháng Nhật, là tư lệnh mặt trận
Thượng Hải lần thứ nhất, sau đó là tư lệnh của Đệ Tứ quân khu. Sau năm 1949,
ông sống tại Hồng Công.
[36] Tướng Trung Hoa Dân Quốc, Phó tư lệnh Hoa quân nhập Việt vào cuối
tháng 8 năm 1945, chỉ huy Quân đoàn 62 và 53 tiến từ Quảng Tây chiếm Cao
Bằng, Lạng Sơn, và những vị trí quan trọng dọc theo bờ biển tới Hải
Phòng, từng làm trợ lý Tư lệnh Chiến khu 4 đóng tại Liễu Châu, Quảng Tây, Trung
Quốc.
[37] Bắc hành tạp lục (Ghi chép tản mạn trên đường đi sứ phương Bắc)
là tập thơ bao gồm 131 bài thơ chữ Hán do Nguyễn Du sáng tác
trong khoảng thời gian ông dẫn đầu đoàn sứ bộ nhà Nguyễn sang Trung
Quốc từ đầu năm Quý Dậu 1813 đến đầu năm Giáp Tuất 1814.