Thứ Ba, 20 tháng 12, 2016

24 MÔ HÌNH KINH TẾ HỢP TÁC, HỢP TÁC XÃ

HTX được kinh doanh tất cả những ngành mà pháp luật không cấm, HTX kinh doanh ngành nào phải chịu quản lý nhà nước về ngành đó, được hưởng những ưu đãi và thực hiện nghĩa vụ như các doanh nghiệp khi tham gia thị trường. HTX được hưởng những chính sách khuyến khích phát triển của nhà nước Trung ương và quy định của địa phương, HTX có những quy định riêng về, nghĩa vụ, lợi ích của xã viên,... Dưới đây xin giới thiệu phác thảo một số mô hình HTX theo ngành.
1. HTX dịch vụ nông nghiệp tổng hợp
-  Xã viên: Dân cư, các pháp nhân trên địa bàn, khách hàng ổn định
-  Sản phẩm, dịch vụ: Theo nhu cầu của xã viên và thị trường
-  Địa bàn: Thôn, xã, cụm dân cư không phụ thuộc vào địa giới hành chính
-  Hình thức tổ chức kinh doanh: HTX làm dịch vụ tập trung hỗ trợ xã viên sản xuất kinh doanh và đáp ứng nhu cầu đời sống
-  Vốn: Vốn góp của xã viên, vay, vốn ứng trước của xã viên, vốn ứng trước của các đơn vị bao tiêu sản phẩm
-  Công nghệ: Công nghệ tiên tiến ở một số khâu, công nghệ sử dụng nhiều lao động để làm dịch vụ như bán hàng, sửa chữa, tư vấn, hướng dẫn kỹ thuật sản xuất, sử dụng sản phẩm,…
-  Thị trường: Tại địa phương là chính
-  Nguồn hỗ trợ: Từ các chương trình kinh tế -xã hội của nhà nước và tổ chức phi chính phủ phát triển cộng đồng địa phương. Chú trọng các dự án nhỏ hỗ trợ nhóm sở thích quy mô nhỏ, các đối tượng dễ bị tổn thương trước kinh tế thị trường làm biến đổi nếp sống.
-  Đặc điểm của HTX dịch vụ nông nghiệp tổng hợp là kinh doanh nhiều ngành nghề, lĩnh vực lấy lợi ích của ngành có lợi nhuận cao hỗ trợ ngành khác, nhiều dịch vụ phục vụ xã viên và cộng đồng như hiếu hỷ, lễ hội, phong trào đoàn thể, tập quán. Để duy trì dịch vụ tổng hợp, HTX phân ra nhiều tổ nhóm, đội, công ty trực thuộc, các chi nhánh ở địa phương khác và khoán việc, khoán nộp. Mô hình này có những nét tương đồng với chương trình Tam nông (Nông dân, nông nghiệp, nông thôn) và kiểu kinh tế xã ở Trung Quốc. Ở đó quyền tự chủ của HTX, xã viên được nâng cao trong sự hỗ trợ của chính quyền về hạ tầng và các đơn đặt hàng theo chương trình của nhà nước với mục đích để cộng đồng phát triển bền vững bằng chính nỗ lực của cộng đồng. Trong môi trường hiện nay, HTX dịch vụ nông nghiệp tổng hợp cần tiếp thu những kinh nghiệm giá trị đích của các HTX quốc tế các kibbutz của Israen, Jenchu của Nhật Bản, các HTX nông nghiệp toàn xã ở Việt Nam trong quá khứ và hiện tại.
Thông thường những HTX dịch vụ nông nghiệp tổng hợp không tích luỹ được nhiều lợi nhuận tập trung vào HTX nhưng lợi ích của cộng đồng ở dạng các công trình công cộng và phúc lợi cùng những lợi ích của mỗi xã viên do HTX hỗ trợ lại hiện lên rõ nét.
2. HTX chăn nuôi
·  Xã viên: Các hộ gia đình, các nhà cung cấp đầu vào và bao tiêu sản phẩm ổn định.
·  Sản phẩm, dịch vụ: đầu vào, đầu ra của chăn nuôi
·  Địa bàn: Thôn, xã, cụm, vùng dân cư
·  Hình thức tổ chức kinh doanh: HTX làm tối đa dịch vụ đầu vào, đầu ra của chăn nuôi với chi phí thấp để xã viên giảm chi phí, giảm các công đoạn sản xuất riêng lẻ nhưng đạt lợi nhuận cao nhất trên đồng vốn đầu tư.
·  Vốn: Vốn của xã viên, vốn ứng trước của nhà cung cấp đầu vào và bao tiêu đầu ra, giảm vốn vay.
·  Công nghệ: Áp dụng công nghệ hiện đại nhất về giống, nguồn thức ăn, thú y và tự động hóa về quy trình chăn nuôi, giảm tối đa số lao động/đầu gia súc, gia cầm. Cũng như các HTX sản xuất lương thực, thực phầm cần chú trọng chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn an toàn, vệ sinh thực phầm.
·  Thị trường: Ngoài địa phương, hướng vào xuất khẩu
·  Nguồn hỗ trợ: Chương trình khuyến nông, chương trình kinh tế xã hội của nhà nước và các tổ chức phi Chính phủ, các chương trình của doanh nghiệp lớn trong ngành ví dụ như chương trình giống siêu lạc, giống kháng bệnh,…
·  Hiệu quả: Khảo sát ở huyện Nam Sách, Hải Dương; huyện Từ Sơn và Tiên Du, Bắc Ninh cho thấy thu nhập của xã viên đạt từ 100000-150000 đồng/đầu lợn thịt xuất chuồng, thấp hơn người giết mổ, chế biến! Ý tưởng về một tổ hợp liên hoàn chăn nuôi, giết mổ, chế biến công nghiệp tiêu thụ trong nước và xuất khẩu trực tiếp cần có một dự án với tài trợ lãi suất thì hiệu quả xã viên sẽ tăng lên ít nhất 50% tức là đạt từ 100000-220000 đồng/đầu lợn tiêu chuẩn xuất chuồng (trọng lượng khoảng gần 100 kg/con)
3. HTX trồng trọt
-  Xã viên: Các hộ, chủ trang trại, người có đất canh tác, các nhà cung cấp vật tư, bao tiêu, chế biến sản phẩm.
-  Sản phẩm, dịch vụ: Cây trồng có giá trị cao, có tính cạnh tranh do đặc điểm tự nhiên của địa phương
-  Địa bàn: Tập trung liền vùng đất canh tác để áp dụng công nghệ cơ giới, đạt quy mô về sản phẩm.
-  Hình thức tổ chức kinh doanh: HTX vận động xã viên “dồn điền, đổi thửa”, thuê đất của xã viên; xã viên được trả tiền thuê đất ổn định theo năm, được trả công khi làm việc cho HTX. HTX làm dịch vụ cho các hộ canh tác. HTX sản xuất tập trung và hỗ trợ xã viên sản xuất tiêu thụ sản phẩm.
Một số ý kiến trả lời về thu nhập của người trồng lúa ở Sóc Sơn, Hà Nội: “Nếu thuê và trả toàn bộ các chi phí sản xuất thì mỗi sào lúa, ngoài rơm rạ chỉ thu được 100-150000 đồng/vụ. Do vậy, HTX thuê đất của xã viên cũng nên căn cứ vào mức thu nhập này”
-  Vốn: Vốn góp của xã viên, vốn vay, vốn ứng trước, vốn từ các chương trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, chương trình khuyến nông.
-  Công nghệ: Sử dụng giống mới, kỹ thuật canh tác tiên tiến, giảm lao động trên diện tích canh tác, công nghệ bảo quản trong quá trình sinh trưởng và sau thu hoạch; chú trọng giống mới, giống cho chất lượng sản phẩm, cần có những vùng đất ươm trồng, sản xuất cây giống mới. Có thể thành lập các HTX chuyên về làm giống cây.
-  Thị trường: Ngoài địa phương và xuất khẩu
-  Nguồn hỗ trợ: Chương trình khuyến nông, chương trình kinh tế xã hội của nhà nước và các tổ chức phi Chính phủ, các chương trình của doanh nghiệp lớn trong ngành.
-  Hiệu quả: Một số hộ xã viên ở Việt Nam có thể thu nhập cá biệt từ 100 đến 300 triệu đồng/ha/năm đối với cây đặc sản như hoa, cây dược liệu, rau quả cao cấp nhưng phải đầu tư lớn trong đó đầu tư về thương hiệu và tiếp thị, nhà kính, nhà lưới, điện, nước, nhân công. Khi đại trà mô hình thì thu nhập lại giảm và rủi ro. Cần có quy hoạch cây trồng và hỗ trợ thị trường cho người sản xuất trong phạm vi quốc gia.
4. Nuôi trồng thủy sản và nghề muối
·  Xã viên: Các hộ, chủ trang trại có mặt nước, có khả năng cải tạo đất trũng thành mặt nước hoặc ruộng nước kết hợp trồng và nuôi thủy sản, các khách hàng mua bán ổn định,…
·  Sản phẩm: Các sản phẩm thủy sản có giá trị cao ở trong và ngoài nước.
·  Địa bàn: Theo diện tích mặt nước có khả năng liên kết hệ thống cấp thoát nước.
·  Hình thức tổ chức kinh doanh: HTX thuê mặt nước của xã viên, xã viên được tiền thuê và tiền công lao động; HTX thuê ruộng trũng để chuyển đổi cơ cấu cây-con.
·  Vốn: Vốn góp, vốn vay, vốn của chương trình khuyến ngư.
·  Công nghệ: Giống mới, kỹ thuật nuôi trồng tiên tiến; giảm lao động trên diện tích mặt nước, sản lượng sản phẩm.
·  Thị trường: Hướng mạnh vào xuất khẩu.
·  Nguồn hỗ trợ :Chương trình khuyến ngư, chương trình kinh tế xã hội của nhà nước và các tổ chức phi Chính phủ, các chương trình của doanh nghiệp lớn trong ngành thủy sản.
5. HTX đánh bắt thủy sản
-  Xã viên: Cá nhân, hộ có nghề đi biển, chủ tàu thuyền, nhà cung cấp xăng dầu, ngư lưới cụ, doanh nghiệp chế biến thủy sản,…
-  Sản phẩm: Hải sản có giá trị cao
-  Địa bàn: Ngư trường phù hợp với năng lực tàu thuyền và trình độ người đi biển.
-  Hình thức tổ chức kinh doanh: HTX đóng tàu, thuê tàu rồi cho xã viên thuê; HTX làm các dịch vụ với chi phí thấp nhất cho mỗi chuyến đi. HTX thuê tàu của xã viên, xã viên được tiền thuê và giới thiệu người lao động đi biển.
-  Vốn: Vốn góp của xã viên đóng mới, mua tàu, sở hữu tàu theo vốn góp; đăng kiểm tàu lấy tên HTX và giao lại cho các xã viên sở hữu tàu; vốn vay, vốn ứng của khách hàng mua hải sản,…
-  Công nghệ: Đủ tiêu chuẩn tàu đi biển, ngư lưới cụ và kỹ thuật đánh bắt, sơ chế tiên tiến, thiết bị liên lạc, cứu hộ hiện đại, mua bảo hiểm con người và tàu thuyền.
-  Thị trường: Xuất khẩu hải sản là chính, có thể xuất khẩu thuyền viên.
-  Nguồn hỗ trợ: Chương trình khuyến ngư, chương trình kinh tế biển của nhà nước và các tổ chức phi Chính phủ, các chương trình của doanh nghiệp lớn trong ngành.
6. HTX công nghiệp
·  Xã viên: Cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình gia công các chi tiết và lắp ráp sản phẩm, các nhà đầu tư tài chính, chú ý những doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm, doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu,…
·  Sản phẩm, dịch vụ: hàng hóa thành phẩm, chi tiết sản phẩm tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
·  Địa bàn: Gắn với các khu công nghiệp, nơi có sản xuất sản phẩm truyền thống, lao động có tay nghề cao.
·  Hình thức tổ chức kinh doanh: Sản xuất tập trung; hỗ trợ xã viên gia công chi tiết sản phẩm, đại lý tiêu thụ.
·  Vốn: Vốn góp, vốn vay, vốn ứng trước, vốn huy động trên thị trường chứng khoán,…
·  Công nghệ: Tiên tiến đạt số lượng và tiêu chuẩn xuất khẩu, tiêu chuẩn VN
·  Thị trường: Xuất khẩu, có thể xuất khẩu bán thành phẩm, tiêu dùng trong nước.
·  Nguồn hỗ trợ: Chương trình khuyến công, chương trình hỗ trợ doanh nghiệp, chương trình xúc tiến thương mại của Chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, từ đơn đặt hàng .
Hợp tác xã công nghiệp cần chọn quy mô, ngành nghề, sản phẩm thích hợp: Ví dụ như chế biến nông sản của những hộ xã viên, hợp tác xã, ví dụ như mô hình Coopel của Pháp đã liên kết các HTX, xã viên chăn nuôi, sơ chế và chế biến thịt lợn. Ở Việt Nam có thể hình thành các HTX chế biến súc sản, xay xát gạo, đánh bóng nhân cà phê và chế biến thủy sản. HTX này là thành viên của liên hiệp HTX trong vùng chuyên sản xuất nông sản. Các HTX quy mô vừa có thể tiếp cận với các doanh nghiệp công nghiệp có quy mô lớn để nhận gia công, lắp ráp các chi tiết sản phẩm hoặc cung ứng các dịch vụ như suất ăn công nghiệp cho công nhân.
7. HTX tiểu thủ công nghiệp
-  Xã viên: cá nhân, nghệ nhân, người có tay nghề làm hàng thủ công mỹ nghệ, các pháp nhân tham gia cung ứng và bao tiêu sản phẩm.
-  Sản phẩm, dịch vụ: Hàng thủ công mỹ nghệ thuần khiết và hàng thủ công mỹ nghệ có gắn chi tiết hiện đại.
-  Địa bàn: Gắn với các làng nghề, phố nghề, vùng đất nghề truyền thống, tạo lập nghề mới ở các vùng đô thị hoá, gia công, sản xuất sản phẩm truyền thống của các nền văn hóa trên thế giới và khu vực.
-  Hình thức tổ chức kinh doanh: HTX sản xuất tập trung cung cấp nguyên liệu qua xử lý, gia công các chi tiết đòi hỏi cơ giới và bí quyết, hỗ trợ đầu vào, đầu ra, đào tạo lao động theo phương thức truyền nghề.
-  Vốn: Vốn góp, vốn vay, vốn của các chương trình bảo tồn, phát huy nghề truyền thống, vốn ứng trước,…
-  Công nghệ: Theo công nghệ truyền thống, tự động hóa một số khâu.
-  Thị trường: Xuất khẩu là chính
-  Nguồn hỗ trợ: Chương trình khuyến công, chương trình hỗ trợ doanh nghiệp, chương trình xúc tiến thương mại, du lịch của Chính phủ, các tổ chức phi chính phủ.
Lợi thế của HTX TTCN là lao động tại chỗ, đơn giá tiền lương không cao nhưng ổn định, nguồn nguyên liệu tại địa phương, lao động thủ công nên giá thành sản phẩm giảm, có sức cạnh tranh. Vấn đề là tạo mẫu mã sản phẩm phù hợp với nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế. Những HTX mây, tre, nứa, lá đan lát, mộc rèn, đúc, gốm sứ mỹ nghệ,…xuất khẩu thành công ở Việt Nam cần được nhân rộng thông qua các chương trình khuyến công, chương trình xuất khẩu. Đôi khi vì theo đuổi các dự án công nghiệp quy mô lớn, có vốn đầu tư cao chúng ta đã không chú ý thích đáng đến các HTX TTCN. Trên 2000 HTX công nghiệp và TTCN ở Việt Nam cần được quan tâm thích đáng của nhà nước để phục hồi phát triển hơn 2000 làng nghề (làng nghề có trên 100 năm) toàn dụng nguồn nhân lực và các lợi thế. Có thể xây dựng chương trình phát triển HTX này với sự hỗ trợ tín dụng, chuyên gia để đổi mới công nghệ và mở mang thị trường.
8. HTX giao thông, vận tải
·  Xã viên: Cá nhân, các chủ phương tiện, các khách hàng ổn định nhu cầu vận tải hàng hoá, hành khách trên các tuyến cố định, khách hàng khác.
·  Sản phẩm, dịch vụ: Vận tải hành khách, hàng hoá, dịch vụ sửa chữa phương tiện vận tải, dịch vụ cung cấp nhiên liệu, bến bãi, kho tàng, ăn nghỉ,...
·  Địa bàn: Trên các tuyến giao thông trong nước và quốc tế.
·  Hình thức tổ chức kinh doanh: HTX kinh doanh tập trung; HTX hỗ trợ xã viên bằng các dịch vụ đăng ký phương tiện mang tên HTX sau đó giao lại cho xã viên, bảo lãnh vay vốn bằng cách thế chấp chính phương tiện đó. HTX đứng tên vay tín dụng thuê mua (leasing- bên cho vay đứng chủ sở hữu, bên vay sử dụng và trả dần cho đến khi trả đủ sẽ được sở hữu, hoặc trả số tiền tương đương với thời gian và công năng phương tiện mà bên vay sử dụng nhưng không sở hữu), HTX làm dịch vụ đăng kiểm, bảo hiểm, mở luồng tuyến, bến bãi, cung cấp nhiên liệu, sửa chữa thay thế phụ tùng, đào tạo lái xe, phụ xe,…với chi phí cạnh tranh.
·  Vốn: Vốn góp, vốn của xã viên làm chủ sở hữu phương tiện, vốn vay, vốn tín dụng thuê mua,…
·  Công nghệ: Các phương tiện chất lượng cao được phép lưu hành tại Việt Nam.
·  Thị trường: Trong nước và quốc tế
·  Nguồn hỗ trợ: Chương trình giao thông công cộng của nhà nước, các tổ chức phi chính phủ.
HTX giao thông vận tải có thể mở mang thêm nhiều dịch vụ mới với các loại phương tiện được phép tham gia giao thông. Ví dụ như Liên hiệp HTX giao thông vận tải có thể đầu tư cây xăng bán giá thấp (không lấy lãi như các cây xăng khác), hỗ trợ xã viên thông qua dịch vụ phân bổ luồng tuyến, thiết bị thông tin, các cơ sở sửa chữa bảo hành bảo trì phương tiện, mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ phương tiện,… HTX của những xã viên chạy xe ôm được lắp công tơ tính giá cước cạnh tranh, HTX xích lô, taxi, xe vận tải cỡ nhỏ, tàu thuyền. Xã viên nhận thấy lợi ích sẽ tham gia HTX.
Loại hình HTX vận tải ở Việt Nam giải quyết các vấn đề: Đáp ứng nhu cầu vận tải đa phương tiện, đa dạng; an toàn giao thông; chuyển cá nhân kinh doanh tự do, xe dù, bến cóc tranh giành khách vào HTX. Hiện nay, bình quân mỗi tỉnh có khoảng 1000 đầu phương tiện cơ giới của tư nhân tham gia vận tải nhưng không đứng trong tổ chức một cách ổn định, chủ phương tiện và người điều khiển là xã viên tiềm năng của mô hình HTX vận tải. Vì lý do an toàn, không thể để xe vận tải cá nhân tự do lưu thông trên các luồng tuyến.
9. HTX thương mại
-  Xã viên: Cá nhân, thương nhân, pháp nhân có quan hệ thương mại, chú ý hàng hóa có nhiều khách hàng tập trung tại điểm dân cư.
-  Sản phẩm, dịch vụ: Mua và bán hàng hoá, dịch vụ.
-  Địa bàn: Trong nước với quy mô cụm dân cư hoặc hệ thống trong phạm vi không hạn chế.
-  Hình thức tổ chức kinh doanh: HTX kinh doanh tập trung; HTX hỗ trợ thương nhân kinh doanh, làm các dịch vụ phục vụ việc thực hiện giá trị hàng hóa được tiêu thụ.
-  Vốn: Vốn góp, vốn vay, vốn huy động trên thị trường chứng khoán.
-  Công nghệ: Áp dụng công nghệ bán hàng tiên tiến, hệ thống bảo quản, bao gói, hướng dẫn sử dụng, hậu mãi.
-  Thị trường: Trong nước và xuất khẩu
-  Nguồn hỗ trợ: Chương trình xúc tiến thương mại của Chính phủ, các khóa huấn luyện miễn phí của các tổ chức phi chính phủ, từ các nhà phân phối chính, nhà sản xuất, xuất nhập khẩu.
Mô hình HTX tiêu thụ có thể tham khảo kinh nghiệm của Thuỵ Điển, Nhật Bản, HTX cung tiêu của Trung Quốc, CHLB Nga,… Lập luận của mô hình này xuất phát từ tính nguyên thủy của HTX: Ai cũng phải tiêu dùng và tiêu dùng ngày càng tăng; kinh tế thị trường phát triển cần có sự liên kết của những người tiêu dùng lại giành lợi thế của người mua, HTX tiêu dùng có những đặc điểm và kết cấu sau:
(1)     Mọi người tiêu dùng được tham gia HTX. Có thể thông qua mức tiêu dùng đủ một giá trị quy định là được phát thẻ xã viên;
(2)     Mua hàng của HTX giảm giá và hưởng các dịch vụ sau bán hàng; bán hàng cho HTX được ổn định số lượng và giá bán.
(3)     Ai góp nhiều vốn, mua nhiều được giảm giá nhiều hơn và được chia lãi cao hơn;
(4)     Xã viên được cấp thẻ để mua hàng ở hệ thống bán hàng thuận lợi, hoặc được mang đến tận nhà.
(5)     Xã viên được chia lợi nhuận do góp vốn, mua hàng, được dùng lợi nhuận đó góp vốn hay sang nhượng cho xã viên mới để tăng thêm xã viên.
(6)     Xã viên có thể cầm cố tài sản, chứng từ có giá để mua hàng-xuất hiện nghiệp vụ tín dụng tiêu dùng, tín dụng thuê mua.
Những lợi thế kinh tế và nhân văn của HTX thương mại đã bị các tổ chức kinh doanh lợi dụng thông qua các thủ đoạn khuyến mại, bán hàng đa cấp, thẻ siêu thị, khách hàng thân thiện. Người tiêu dùng không có tư cách xã viên, không được tham gia quản lý, không được phân phối lại lợi nhuận mà lợi nhuận đó chính là những đồng tiền mình đã mua hàng.
10. HTX chợ
·  Xã viên: Thương nhân, cá nhân, các pháp nhân mua bán hàng hóa tại chợ, các nhà cung cấp dịch vụ có giá trị cao, ổn định như vận tải hàng hoá, kho bãi hàng, dịch vụ vui chơi giải trí tại chợ,…
·  Sản phẩm, dịch vụ: Hàng hoá, dịch vụ tại chợ.
·  Địa bàn: Gắn với một hoặc nhiều chợ cụ thể trong đó có chợ đầu mối, chợ chuyên về nông sản,… kết hợp với các dịch vụ ngoài chợ, các đại lý trong vùng,…
·  Hình thức tổ chức kinh doanh: HTX kinh doanh tập trung như một thương nhân; HTX hỗ trợ thương nhân để chi phí thương mại nhỏ, tăng lợi nhuận cho thương nhân.
·  Vốn: Vốn góp xây dựng hạ tầng, kinh doanh hàng ngày, vốn trả trước thuê ki-ốt, điểm bán hàng,vốn vay,…
·  Công nghệ: Áp dụng các mẫu chợ tiên tiến, phù hợp với tập quán, bản sắc văn hóa dân tộc, tập quán vùng.
·  Thị trường: Trong nước, xuất khẩu.
·  Nguồn hỗ trợ: Vốn lồng ghép từ các chương trình hỗ trợ vùng khó khăn, hỗ trợ nông thôn, chương trình kinh tế -xã hội của nhà nước, các tổ chức phi Chính phủ,…
Định hướng xã hội hóa quản lý, kinh doanh chợ ở Việt Nam: Các chợ do HTX, doanh nghiệp quản lý, kinh doanh; xóa bỏ các Ban quản lý là đơn vị sự nghiệp hưởng lương và chi phí từ ngân sách.
Việt Nam có khoảng trên 9000 chợ các loại, loại 1 trên 400 sạp, loại 2 trên 200 sạp, loại 3 từ 200 trở xuống. Chợ chiếm 40% doanh số bản lẻ của thị trường, siêu thị và trung tâm thương mại chiếm 20% và các cửa hàng, hiệu, mua bán không ổn định vị trí chiếm đến 40%. Chợ không thuần mua bán mà gắn với sinh hoạt văn hoá, xã hội tập tính của địa phương mang tính cộng đồng; cần áp dụng mô hình HTX chợ để giảm bao cấp của nhà nước, trả về cho cộng đồng tự quản. Xu thế hội nhập, các chợ sẽ được các tập đoàn bán lẻ, các hãng lớn để mắt đến nhằm liên kết hệ thống phục vụ tiêu dùng, chiếm thị phần, đoạt lợi nhuận của các thương nhân trong nước! Ai đầu tư chợ kịp thời và bắt nhịp được với xu thế bán lẻ, người đó sẽ thu được lợi ích một cách “nhàn nhã” trong tương lai.
Vấn đề không phức tạp: Nhà nước có thể đấu thầu, giao bán khoán cho thuê chợ; định lại giá trị hiện tại tài sản chợ và trả về cho các chủ sở hữu; vốn ngân sách đã đầu tư là vốn góp (cho vay) hoặc vốn giao hẳn cho HTX thành tài sản không chia; vốn của cá nhân, doanh nghiệp chuyển thành vốn góp khi tham gia HTX, hoặc thanh lý. HTX cần từng bước đầu tư chợ, chú trọng các dịch vụ bổ sung, phù trợ, “ăn theo chợ” như nhà hàng, kho bãi, cây xăng, khu vui chơi giải trí, phát thẻ coi xe, trông trẻ miễn phí,… phát triển xã viên là thương nhân thuê sạp, người lao động thường xuyên tại chợ, quảng bá thương hiệu chợ và liên kết với các nhà phân phối bán lẻ,…
11. HTX trường học
-  Xã viên: Giáo viên, cán bộ nhân viên, sinh viên của một trường đại học, sau đó có thể liên kết thành các liên hiệp theo vùng và toàn quốc.
-  Sản phẩm, dịch vụ: Hàng hoá, dịch vụ vụ phục vụ giảng dạy, học tập và đời sống của xã viên.
-  Địa bàn: Một trường đại học; có thể áp dụng đến các trường trong hệ phổ thông trung học, gia đình có học sinh dưới 18 tuổi cử đại diện tham gia HTX.(Philipin cho học sinh trung học 15 tuổi bỏ phiếu bầu một xã viên vào Ban quản trị HTX)
-  Hình thức tổ chức kinh doanh: Tính chất phục vụ, lợi nhuận của HTX nhỏ, giảm giá hàng hoá, dịch vụ cho thầy và trò trong giảng dạy và sinh hoạt tập thể tại trường. Điều lệ HTX có thể quy định bắt buộc phải sử dụng hàng hoá, dịch vụ tại trường, sau một thời gian khoảng 1 năm, xã viên không sử dụng có thể bị khai trừ ra khỏi HTX (quy định của HTX trường học Nhật Bản)
-  Vốn: Vốn góp, vốn vay lãi thấp của các tổ chức, vốn ứng trước của người cung cấp hàng hoá,…
-  Công nghệ: Thông qua tiêu dùng, xã viên tiếp cận những công nghệ mới về thương mại và thương phẩm học, nắm được các kỹ năng giao tiếp,..
-  Thị trường: Chủ yếu phục vụ xã viên có thẻ
-  Nguồn hỗ trợ: Chương trình khuyến học, chương trình phát triển tài năng, các nguồn học bổng cho sinh viên của nhà nước và các tổ chức phi chính phủ.
Ví dụ về lợi ích của xã viên ở trường đại học Xã hội và nhân văn Tokyo: HTX trường học Gakugei có gần 7000 xã viên là sinh viên, giáo viên, cán bộ, nghiên cứu sinh :
Lợi ích kinh tế: Giảm giá cho xã viên: 10% sách giáo khoa, 20-30% văn phòng phẩm, giảm giá sử dụng máy tính và các phần mềm, giảm 30-40% giá các bữa ăn, 10% đối với thực phẩm, giảm 10000-30000 Yên để lấy bằng lái xe, giảm giá các chuyến du lịch, tham quan,…
Lợi ích văn hoá: Tham gia vào các chương trình, sự kiện khác nhau; phản ánh và được lấy ý kiến, nguyện vọng; cử đại diện tham gia quản lý điều hành hợp tác xã; phát triển tinh thần cộng đồng vì mục đích hoà bình, hợp tác, phát triển.(Nguồn: Nobuhiro, giám đốc điều hành HTX, năm 2005):
Các quốc gia có HTX trường học phát triển: Nhật Bản có 200 HTX, Ẩn Độ có 12000 với trên 2 triệu xã viên, Malayxia có trên 1000, Hàn Quốc có 12 HTX trường học; Philipin, Thái Lan, Singapore đều có những mô hình HTX trường học hoạt động từ thế kỷ trước đến nay. Thành lập Liên đoàn HTX trường học quốc gia: Ở Nhật bản viết tắt NFUCA, Malayxia gọi là Gakub,…bên cạnh các liên đoàn HTX ngành nghề khác. Các liên đoàn này đại diện cho các HTX thành viên và có tiếng nói với Chính phủ để được chấp thuận những điều kiện hoạt động thuận lợi cho xã viên là học sinh, sinh viên, giáo viên. Liên minh HTX thế giới khu vực Châu Á-Thái Bình Dương gọi tắt là ICA-AP có 55 tổ chức thành viên quốc gia của 22 nước (Liên minh HTX Việt Nam là thành viên) rất quan tâm đến HTX trường học, năm 1994 ICA-AP thành lập tiểu ban HTX trường học trong Ủy ban HTX tiêu dùng của khu vực Châu Á.
Tại Việt Nam: Mô hình hợp tác xã trường học sớm nhất là HTX dịch vụ trường học, xã viên là một số nhỏ sinh viên, cán bộ giáo viên trường Đại học Kinh tế quốc dân (1998); Trường đại Học dân lập Phương Đông có HTX dịch vụ trường học được chuyển tiếp từ HTX nhuộm Thống Nhất. Trường Đại học dân lập quản trị Kinh doanh Hà Nội thành lập theo Luật Hợp tác xã năm 1996. Đây là những mô hình mới, cần xây dựng mối quan hệ tích cực giữa nhà trường và HTX để phát triển theo nguyên tắc HTX trường học lấy phục vụ là chính, phi lợi nhuận như kiểu HTX trường học Nhật Bản. Lẽ nhân văn này không hẳn đã được chấp thuận bởi những vấn đề vốn góp, vốn đầu tư, lợi nhuận trường học và tâm lý Ban lãnh đạo trường, Ban quản trị HTX chưa hẳn đã đồng thuận và thông thoáng.
Tóm lại: HTX trường học gắn với thế hệ trẻ, thế hệ có sức tiêu dùng trong hiện tại và tương lai, HTX có tính nguyên bản (HTX tiêu dùng, cung tiêu) mà các nhà kinh tế -xã hội cổ điển và đương thời đang tận tâm theo đuổi.
Để phát triển HTX trường học với ý nghĩa rộng hơn cần chú ý đến việc tổ chức hoạt động tín dụng cho sinh viên để nâng cao chất lượng sống, tổ chức các mô hình sản xuất kinh doanh trong trường dạng vườn ươm doanh nghiệp để sinh viên có thể chuyển mô hình đó ra “mặt trận sản xuất, kinh doanh trên thị trường” tự các em tổ chức sản xuất, kinh doanh. Tại Hà Nội, Thành phố HCM mỗi nơi có ít nhất gần 6000 sinh viên tốt nghiệp chờ việc, tìm việc. Tại sao HTX và nhà trường không lập vườn ươm HTX, doanh nghiệp ngay trong trường và giao việc đó cho HTX trường học.
12. HTX y tế, bệnh viện
·  Xã viên: Cá nhân, hộ gia đình, các pháp nhân sử dụng nhiều lao động.
·  Sản phẩm, dịch vụ: khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ, tư vấn dinh dưỡng,..
·  Địa bàn: Vùng tập trung dân cư.
·  Hình thức tổ chức kinh doanh: HTX tập trung làm dịch vụ tại bệnh viện, hỗ trợ xã viên là thầy thuốc tham gia khám chữa bệnh tại bệnh viện, các phân viện hoặc tại gia đình.
·  Vốn: Vốn góp, vốn vay ưu đãi để xây dựng hạ tầng.
·  Công nghệ: Sử dụng phương pháp y học hiện đại, thiết bị chuyên dùng, vốn tín dụng thuê mua,…
·  Thị trường: Khu vực dân cư xã viên và người dân sinh sống, có thể mở rộng phạm vi khám chữa bệnh cho các đối tượng.
·  Nguồn hỗ trợ: Các chương trình của Chính phủ và các tổ chức phi chính phủ.
Mô hình HTX y tế mang nội dung cộng đồng đã và đang phát triển ở các quốc gia công nghiệp hoá, Nhật Bản là một điển hình thành công. Tương tự như các mô hình HTX khác, xã viên góp vốn, góp công, dùng dịch vụ khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ của HTX được ưu đãi về phí, chất lượng dịch vụ tốt, được hướng dẫn các dịch vụ y tế dự phòng để cộng đồng tự tuyên truyền, chăm sóc sức khỏe, phổ biến kinh nghiệm phòng, chữa bệnh, được chia lãi và chuyển lãi thành bảo hiểm y tế.
Thực tế cuộc sống với mô hình bác sỹ gia đình với phí bình quân khoảng 1 triệu đồng/năm cho gia đình 4 người, nhóm bác sỹ chăm sóc khoảng 100 gia đình trong cụm dân cư với các dịch vụ ghi trong hợp đồng, trong đó có cả dịch vụ chọn bệnh viện, chọn bác sỹ khám chữa bệnh…tại sao HTX chưa làm việc đó?
Mô hình chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi, nhà dưỡng lão, kết hợp với du lịch thăm khám chữa bệnh cần áp dụng tổ chức HTX. Nên khảo sát những trung tâm dịch vụ này ở trong nước và thế giới để thành lập HTX y tế ở Việt Nam. Mô hình HTX chăm sóc người cao tuổi nên thử nghiệm tại Việt Nam: xã hội phát triển người cao tuổi có tích luỹ, có nhu cầu chăm sóc, sinh hoạt cộng đồng, họ là xã viên HTX góp vốn, mua bảo hiểm tăng dần từ khi đang lao động có thu nhập ổn định. HTX kết hợp kinh doanh đối với các đối tượng không phải là xã viên để nâng cấp cơ sở vật chất, tăng thu nhập cho người lao động trực tiếp.
Ở Việt Nam, mô hình HTX y tế Hợp Lực, Thanh Hóa đã thu hút sự quan tâm của dư luận. Bên cạnh mô hình HTX y tế còn có những tổ chức dịch vụ y tế theo Nghị định số 53/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 25 tháng 5 năm 2006 về chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập
13. HTX nước sạch
-  Xã viên: cá nhân, hộ, pháp nhân những sử dụng nước sạch và cung cấp nước sạch, các thiết bị về nước.
-  Sản phẩm, dịch vụ: nước sạch và sử dụng thuận lợi nhất.
-  Địa bàn: Vùng dân cư tập trung.
-  Hình thức tổ chức kinh doanh: HTX mua nước của nhà cung cấp, bán lại cho xã viên với giá thấp hơn hoặc bằng giá của nhà cung cấp! HTX đầu tư hệ thống nguồn, đường dẫn đến các hộ tiêu dùng; HTX hỗ trợ các hộ khai thác nước quy mô nhỏ, cung cấp trong phạm vị hẹp.
-  Vốn:Vốn góp, vốn vay,vốn ứng trước của người tiêu dùng, vốn tài trợ.
-  Công nghệ: Sử dụng công nghệ đạt tiêu chuẩn nước sạch, an toàn với chi phí thấp.
-  Thị trường: Những người sống ở phạm vi thiết kế hệ thống cung cấp nước.
-  Nguồn hỗ trợ: Từ chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường của nhà nước và các tổ chức phi chính phủ; từ phúc lợi của cơ quan doanh nghiệp có cán bộ, công nhân sống tập trung trong chung cư, cụm dân cư.
-  Hiệu quả: người sử dụng nước sạch tiết kiệm chi phí cộng dồn trong nhiều năm là một số lớn, nguồn thu của HTX tăng dần theo thời gian và số người sử dụng.
Mục tiêu nước sạch được thế giới quan tâm. Mô hình nước sạch cộng đồng có sự trợ giúp của Chính phủ và các NGO về phần thiết bị ban đầu, sau đó phát triển đường nước, thu phí nước sạch, hoàn vốn tài nguyên và phát triển dịch vụ. Tuy nhiên, những nhà tài trợ và chính quyền địa phương lại né tránh mô hình HTX, gọi chệch thành các tổ hợp tác hoặc mô hình nước sạch nhân dân, cộng đồng. Mặc cảm và nhận thức cũ kỹ đã làm sai lệch giá trị tinh thần của HTX, rất dễ bị các nhóm thao túng, lợi dụng mô hình cộng đồng, phân chia lợi ích không công bằng!
14 HTX điện
- Xã viên: Người tiêu thụ điện và những nhà cung cấp nguồn điện, thiết bị điện. Tại Việt Nam, nếu theo Luật Hợp tác xã năm 2003, thì 7 người thành lập hợp tác xã điện, mua điện của công ty thuộc Tổng công ty điện lực Việt Nam độc quyền đường truyền tải rồi bán đến hộ tiêu thụ, hưởng chiết khấu thì chỉ là hợp tác xã hình thức, đúng ra là cai điện gây bất bình cho chính quyền và dân chúng bởi 7 người hưởng lợi nhuận (đôi khi khéo gọi là chênh lệch giá, hoặc thu phí cho nhẹ nhàng) chỉ là kế tiếp của độc quyền ép vào người tiêu thụ.
Một số hợp tác xã dịch vụ cũng có tình trạng tương tự. HTX của 10 người thân hữu được thừa kế tài sản HTX cũ, được ưu đãi, được ủng hộ của cấp xã đã biến xã viên, dân chúng thành thị trường độc quyền cũng không phải là hợp tác xã đích thực. Việc sửa đổi số lượng tối thiểu xã viên lên mức 15 người/hợp tác xã và giảm tỷ lệ vốn góp tối đa của một xã viên xuống dưới 20% (hiện nay không quá 30 % vốn Điều lệ) xem ra hợp lý hơn.
- Sản phẩm, dịch vụ: Điện thương phẩm với chất lượng ổn định và an toàn hệ thống truyền tải, sử dụng trong gia đình
-  Địa bàn: Cụm dân cư tập trung quy mô xã, liên xã.
-  Hình thức tổ chức kinh doanh: Tập trung.
-  Vốn: Vốn góp, vốn của ngành điện ứng trước, vốn của hợp tác xã tích luỹ.
-  Công nghệ:Công nghệ tiên tiến, giảm hao hụt đường dây, chọn thiết bị đồ dùng tiêu hao ít năng lượng.Theo tính toán kinh tế-kỹ thuật: đường dây chuẩn, người tiêu dùng chọn đúng loại thiết bị và cách sử dụng hợp lý sẽ giảm từ 20-30% điện năng tiêu thụ. Một số quốc gia bắt buộc khi nhập khẩu và sản xuất sản phẩm mới phải đạt mức độ tiết kiệm năng lượng đến 20% so với thiết bị hiện dùng phổ biến.
-  Thị trường:Theo khả năng nguồn và đường dây chuyển tải
-  Nguồn hỗ trợ: Từ các chương trình phát triển nông thôn, cải tạo chỉnh trang đô thị, vốn phúc lợi của cộng đồng.
Hiện nay một số địa phương nước ta đã ra quyết định bàn giao hệ thống điện (đường dây và trạm biến áp, công tơ, hộp công tơ) từ HTX sang ngành điện. HTX và ngành điện cần liên kết để bảo vệ đường dây, phục vụ nhu cầu người tiêu thụ với giá thấp hơn giá quy định (thực chất là giảm lợi nhuận của hợp tác xã) Trường hợp phải bàn giao, để được bồi hoàn giá trị còn lại, các hợp tác xã phải có chứng từ đầu tư, có lý lịch tài sản, nếu không hội đồng thẩm định giá theo hiện vật còn lại sẽ bất lợi.
Tiêu thụ điện là chỉ số của văn minh và mức đo chất lượng đời sống. Dân chúng có thể đề nghị tổ chức mô hình HTX điện, mỗi hộ xã viên sẽ nhờ dịch vụ và giá bán điện của HTX thấp hơn mà tiết kiệm được 150000 đồng/năm. Nếu 5 triệu hộ xã viên mỗi năm tiết kiệm được 750 tỷ đồng. Nếu không có HTX thì số tiền 750 tỷ kia chuyển và phân tán vào hệ thống dịch vụ ngành điện, không phải ai cũng được hưởng. HTX điện của nước Mỹ đã đi theo hướng này để giành lại nhiều tỷ USD cho xã viên, nước Mỹ có tỷ lệ xã viên trên dân số cao nhất thế giới, 2,30 người có 01 xã viên. Kinh tế thị trường là tự do tham gia mua bán những thứ hàng hóa tiêu dùng thiết yếu, tại sao HTX chúng ta không giành lợi ích trường tồn nầy? Tại sao ngành điện không chia sẻ cho cộng đồng tự quản đoạn sau của thị trường? ngành điện chỉ độc quyền đường dây chứ không độc quyền sản xuất và bán điện!
15. HTX vệ sinh môi trường
Môi trường tự nhiên không khí, nước, tiếng ồn, khí tượng thủy văn ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của mỗi người, của nhiều người, của nhà nước. Do vậy, ai cũng cần môi trường tốt đạt tiêu chuẩn sống, và nó ảnh hưởng đến cộng đồng. Cũng vì lẽ đó mà vệ sinh môi trường là việc chung có phân chia công đoạn việc làm, thu nhập, hưởng thụ, góp vốn cho các đối tượng cá nhân, tổ chức. Trong tương lai, chỉ tiêu môi trường sẽ hiện lên ngày càng lớn trong GDP các nền kinh tế, đây là bước quặt lại để phục hồi và phát triển giá trị môi trường của quá khứ 200 năm kể từ khi nhân loại tăng trưởng kinh tế bằng công nghiệp hoá! để duy trì hợp lý sự nóng lên của trái đất, để phục hồi nguyên sinh, để tương lai trong sáng.
Cần bao nhiêu tiền để duy trì xanh sạch đẹp ở một vùng? ai được hưởng phải đóng tiền, ai vi phạm phải trả và phạt tiền. Môi trường là hạ tầng thuộc đầu tư Chính phủ. Cần bao nhiêu sẽ là con số tính được, ai góp mức nào cũng tính được. Vậy thì thành lập hợp tác xã vệ sinh môi trường sẽ nghiêng về xã hội hoá, cộng đồng hóa điều kiện sống của mỗi người.
Khẩu hiệu về môi trường bao giờ cũng lớn hơn thực tế, phong trào rộng nhưng tính hiện hữu thường nhật lại có hạn, nhiều đoàn thể lên tiếng nhưng phải có tổ chức thực thi với những lao động có tính chuyên nghiệp hoá. HTX môi trường được tóm tắt như sau:
·  Xã viên: Cố gắng tất cả những cá nhân, hộ, pháp nhân kinh doanh và pháp nhân phi lợi nhuận trên vùng lãnh thổ hợp lý.
·  Sản phẩm, dịch vụ: Làm sạch môi trường, thu rọn xử lý chất thải, tư vấn môi trường, trồng và quản lý cây xanh, bảo vệ nguồn lợi tự nhiên,…
·  Địa bàn: Một thôn, tổ dân phố, sau đó mở rộng.
·  Hình thức tổ chức kinh doanh: Làm dịch vụ thu phí, phi lợi nhuận; hợp đồng làm vệ sinh với các cơ quan và hộ để thu lời, thu phí môi trường công cộng. Hỗ trợ hộ xã viên bằng giới thiệu việc làm vệ sinh tại gia, các cơ quan có nhu cầu theo ngày, tháng năm.
·  Vốn: Vốn góp, vốn vay, vốn tài trợ, vốn công trợ của Chính phủ và các NGO.
·  Công nghệ: Áp dụng công nghệ tiên tiến, cơ giới và trang bị dụng cụ đồ bảo hộ cho người lao động, người tiêu dung được tư vấn và cung cấp các thiết bị xử lý chất thải. Ví dụ như được phát túi đựng tự huỷ, thùng đổ rác có phân loại,…
·  Thị trường:Toàn bộ không gian sống của dân cư.
·  Nguồn hỗ trợ: Từ các chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường, chương trình phát triển nông thôn, cải tạo chỉnh trang đô thị, vốn phúc lợi của cộng đồng, quan trọng hơn là đặt hàng của Chính phủ và các nhà sản xuất. Các dự án quốc tế về môi trường ở Việt Nam nên lấy HTX là một đối tượng thực hiện. HTX môi trường ở thị trấn Thắng, Hiệp Hòa, Bắc Giang là một ví dụ phát triển khá thành công, cần nhân rộng và điều chỉnh.
16. HTX phục vụ trẻ em
 Đại hội đồng Liên hợp quốc, Phiên họp thứ 49:
“Qua việc cải tiến điều kiện làm việc của phụ nữ các HTX cũng có khả năng cải thiện đời sống cho trẻ em những các HTX có những kiểu liên quan đặc biệt như nhà ở, sức khoẻ, giáo dục và chăm sóc trẻ em.
Về sau này đã lan ra nhanh chóng ở Ca-na-đa năm 1993 một Hiệp hội các HTX chăm sóc trẻ em ở Ca-na-đa đã được thành lập đại diện cho 900 cơ sở. Nhiều Liên minh tín dụng đã có những hoạt động làm giảm bớt khó khăn đặc biệt cho các bộ phận trong trường học và một phần cho chính các em. Nhiều phong trào HTX tiếp tục có quan hệ thân thiện, chặt chẽ với những người trẻ tuổi trong tình hình hiện nay. Thí dụ: Một số nơi đã tổ chức các cuộc họp quốc gia theo chuyên đề, tháng 10 năm 1992 liên đoàn HTX quốc gia và trung tâm giáo dục HTX đã tổ chức lần đầu tiên một Đại hội HTX trẻ toàn quốc với nội dung tự thành lập các HTX sản xuất và dịch vụ của những người trẻ tuổi vị thất nghiệp. Thí dụ: ở Cốt-đi-voa tập hợp của nhứng người vị thất nghiệp đã thành lập một HTX bảo vệ rừng và đã ký hợp đồng với chính phủ để thực thi chức năng địa phương đó.”
Ở Việt Nam có nhiều tổ chức chăm sóc trẻ em, hình thức HTX nhà trẻ đã thịnh hành ở các HTX nông nghiệp trong thời bao cấp (trước năm 1988). Hiện nay xuất hiện nhiều nhà trẻ tư nhân, nhà trẻ cơ quan (liên cơ cấp huyện), doanh nghiệp có nhiều nữ lao động. Thành lập HTX nhà trẻ (trẻ trước tuổi lớp 1) có nhiều thuận lợi, vấn đề là sự chỉ đạo xây dựng mô hình. HTX sơn mài Ngọ Hạ, huyện Phú Xuyên, Hà Tây là một điển hình về HTX dạy nghề cho trẻ khuyết tật.
-  Xã viên: Người lao động trong HTX, cha mẹ, người bảo mẫu, giám hộ. Luật Hợp tác xã Việt Nam quy định xã viên 18 tuổi.
-  Sản phẩm, dịch vụ: Chăm sóc trẻ em vị thành niên có cuộc sống tốt về vật chất, tinh thần bảo đảm được học hành thành người lao động hữu ích. Có thể chia ra các lứa tuổi và đối tượng như mẫu giáo, học sinh phổ thông, trẻ em không nơi nương tựa, trẻ em tàn tật để các em tái nhập cộng đồng.
-  Địa bàn: Theo vùng lãnh thổ hành chính với quy mô, đối tượng :
-  Hình thức tổ chức kinh doanh:
+ Đối với HTX nhà trẻ cần tổ chức các lớp học tập trung phù hợp với lứa tuổi;
+ Đối với HTX trẻ em đang đi học cần chuyển đổi các hội cha mẹ phụ huynh học sinh ở một trường thành HTX làm các dịch vụ bảo đảm điều kiện học tập, sinh hoạt vui chơi, hướng nghiệp cho các em;
+ Đối với HTX trẻ em đường phố không nơi nương tựa, trẻ mồ côi, tàn tật tổ chức tập trung, trong đó xã viên là những người bảo mẫu, nhà hảo tâm, các tổ chức nhận đỡ đầu trẻ em. Tạo điều kiện các em chỗ ở, ăn học phổ thông theo chương trình đặc biệt, học nghề.
-  Vốn: Xã viên, nguồn vốn nhà nước giao dạng tài sản không chia.
-  Công nghệ: Áp dụng các phương pháp tiên tiến, hiện đại của ngành giáo dục và đạo tào, cùng với các phương pháp đặc biệt đối với trẻ em cá biệt.
-  Thị trường: Là những nơi, tiếp nhận đạo tạo tiếp, nơi sử dụng lao động có thể là các HTX, doanh nghiệp, hộ gia đình.
-  Nguồn hỗ trợ: Chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, các nhà hảo tâm.
Một phường ở thành phố, một xã ở nông thôn nước ta tổ chức một nhà trẻ với nhiều điểm trông giữ là hợp lý, thu nhập của người lao động có thể đạt bình quân gần 1 triệu đồng/tháng, chi phí của cha mẹ giảm khoảng 20% so với nhà trẻ tư. Trẻ em được chăm sóc, giáo dục bằng những phương pháp tốt nhất.
Mô hình HTX nhà trẻ của phụ nữ Hoa Kỳ cần được nhân rộng, phụ nữ trên thế giới chắc chắn đồng tình bởi HTX đã giúp đỡ họ chăm sóc và giáo dục con cái, tạo thời gian và niềm tin để phụ nữ tham gia các công việc khác.
17. HTX nhà ở
HTX nhà ở là một tổ chức kinh tế -xã hội được thành lập nhằm mục đích cung cấp nhà ở liên tục và lâu dài cho xã viên. Xã viên là người sở hữu và kiểm soát HTX nhà ở. HTX nhà ở phân biệt với các tổ chức nhà ở khác do cơ cấu sở hữu và sự cam kết theo các nguyên tắc HTX.
- Xã viên: Là cá nhân, hộ gia đình có thu nhập trung bình và thấp (căn cứ vào kết quả điều tra mức sống dân cư), đặc biệt chú trọng đến các gia đình trẻ. Theo Luật Hợp tác xã 2003 của Việt Nam có thêm xã viên là các pháp nhân làm đại diện cho những người lao động đó tham gia HTX. Pháp nhân có thể dùng quỹ phúc lợi hỗ trợ xã viên ở đơn vị mình về vốn góp.
- Sản phẩm, dịch vụ: Ngoài nhà ở, HTX cung cấp các dịch vụ như: Bảo dưỡng khu nhà ở và cơ sở hạ tầng; hệ thống nước và nước thải, hệ thống thu gom rác thải; tivi cáp, điện thoại, internet, điện thoại nội bộ; dịch vụ giặt ủi, dịch vụ sửa chữa nhỏ, vệ sinh nội thất, chăm sóc trẻ em, người già, mua bán hàng hóa,… các dịch vụ cộng thêm khi được đông đảo xã viên yêu cầu bao gồm bảo hiểm, nhà trông trẻ, mẫu giáo, cung cấp suất ăn…và những dịch vụ cộng đồng có thể đảm nhận. - Địa bàn: Theo cụm dân cư, theo tòa nhà chung cư, sau đó có thể mở rộng địa bàn cùng với việc thành lập liên hiệp HTX nhà ở quy mô quận, huyện và tỉnh, cấp quốc gia thành lập liên đoàn HTX nhà ở.
-  Hình thức tổ chức kinh doanh:
+ Trường hợp xây mới nhà ở, HTX tổ chức kinh doanh tập trung.
+ Trường hợp các chung cư, cụm dân thành lập HTX có thể kinh doanh tập trung kết hợp với làm các dịch vụ theo nguyện vọng xã viên và khả năng của HTX.
Hình thức tổ chức kinh doanh được đưa vào điều lệ.
- Vốn: Vốn góp của xã viên/chủ sở hữu căn hộ thông qua chương trình tiết kiệm; thu nhập/lợi nhuận của HTX, phí dịch vụ hàng tháng do xã viên/chủ sở hữu căn hộ chi trả; thu nhập từ việc cho thuê các công trình chung khác ngoài các căn hộ; vay từ các thành viên là tổ chức ; vay ngân hàng (có thể là tín dụng thuê mua); vay từ Chính phủ; vay từ các quỹ và các tổ chức trong và ngoài nước; các khoản vay, trợ cấp và tài trợ từ Chính phủ thông qua Chương trình nhà ở xã hội cho người có thu nhập thấp và trung bình; quyền sử dụng đất; có sự tham gia một phần từ các nhà đầu tư bên ngoài, tư nhân hoặc các công ty vào việc phát triển các căn nhà ở hoặc các toà nhà thương mại; hoa hồng từ việc làm đại lý,…
- Công nghệ: Áp dụng công nghệ thiết kế để có những tòa nhà, căn hộ tiện ích, hiệu quả.
-  Thị trường: Xã viên và cộng đồng, các khách hàng.
 Kinh nghiệm thành công về HTX nhà ở: Thụy Điển, Na Uy, Phần Lan, Pháp, Đức, Ailen, Tây Ban nha, Ba Lan, Braxin, Chilê, Costa Rica, Urugoay, Israen, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Pakistan, Indonexia, Malayxia, Mỹ,. Canada,… Trang cung cấp những thông tin về HTX nhà ở.
Tại Việt Nam, HTX nhà ở đã được quan tâm nghiên cứu triển khai bởi Liên minh HTX Việt Nam và KFPC, Trung tâm HTX -SCC Thụy Điển. HTX nhà ở tại Việt Nam là nhu cầu cần thiết, khả năng thành công cần đồng thuận của xã viên, các chính sách phát triển HTX, chính sách phát triển nhà ở xã hội theo Luật Nhà ở 2005, và sự nỗ lực, thiện ý của các cấp chính quyền cũng như việc thực hiện nghiêm giá trị, tinh thần, Điều lệ HTX nhà ở.
Khó khăn hiện nay ở nước ta: Đất cho xây dựng phải trả giá cao; chi phí xây dựng chưa giảm, thủ tục hành chính phiền hà, phải vận động để thực hiện những điểm mà luật pháp định hướng, giá thị trường nhà đất có nhiều yếu tố ảo làm cho cung cầu chậm thực hiện.
18. HTX tín dụng
Nhiều người góp vốn để đầu tư tập trung hoặc cho cá nhân vay là nhu cầu từ khi các nền kinh tế biết sử dụng đồng tiền. Các ngân hàng, tổ chức tín dụng và tài chính nhà nước không thể quán xuyến đầy đủ nhu cầu vốn lớn nhỏ của mỗi người dân. Lấp vào khoảng trống này chính là các HTX tín dụng, sau đó thành hệ thống HTX tín dụng toàn quốc với quy mô không không hạn chế và cơ chế tín dụng tương đồng với thị trường vốn và ưu đãi riêng biệt đối với các thành viên.
Cộng hoà Liên bang Đức có các HTX tín dụng thành công, có bề dày kinh nghiệm và bám sát giá trị tương trợ của các HTX tín dụng đối với thành viên: Từ năm 1850 thành lập “hội tạm ứng” tiền thân của HTX tín dụng sau đó gọi là “Ngân hàng nhân dân- Volksbank”; năm 1859 thành lập “văn phòng liên lạc Trung ương các hội tạm ứng và hội tín dụng” tiền thân của hiệp hội (liên đoàn) HTX tín dụng liên bang; năm 1862 ông Raiffeisen thành lập HTX tín dụng đầu tiên ở nông thôn, đến năm 1864 thành lập HTX tín dụng đầu mối đa khu vực để điều hoà vốn. Năm 1871, Luật HTX đầu tiên được ban hành, đến năm 1889 cả nước có 4000 HTX trong đó có 2000 HTX tín dụng, luôn chiếm tỷ lệ gần 50% trong nhiều năm.
Năm 2004, dư âm làn sóng tái cấu trúc và sáp nhập doanh nghiệp, các HTX nước Đức có 1329 HTX tín dụng/5655 HTX, tổng tài sản khoảng 566 tỷ Euro với 18000 điểm giao dịch, 2 Ngân hàng HTX đầu mối với tổng tài sản khoảng 206 tỷ Euro; phục vụ 30 triệu khách hàng, trong đó có trên 15 triệu khách hàng là thành viên.
Các quốc gia có HTX tín dụng, bảo hiểm mạnh hoạt động có hiệu quả là Canada, Hàn Quốc, Thái Lan,… Riêng Bangladesh khá thành công với các tổ tín dụng nhỏ (tín dụng vi mô) phục vụ phụ nữ nghèo, sau thành lập ngân hàng Garment:
19. HTX đầu tư tài chính
Mặc cảm và nhận thức về HTX kiểu cũ đã khiến nhiều người nghĩ rằng HTX chỉ làm những hoạt động kinh tế xã hội đơn giản, nhỏ lẻ của cộng đồng, nhiều nơi đã chuyển những công nghệ thiết bị lạc hậu về HTX. Ví dụ, tâm lý xã hội cho rằng mô hình HTX không phù hợp với đầu tư nước ngoài, khu cụm công nghiệp, công nghệ cao, siêu thị, tư vấn pháp luật, đầu tư cổ phiếu, kinh doanh bảo hiểm mua chứng khoán, viễn thông, sản xuất điện…
Mô hình HTX đầu tư tài chính đặt HTX bình đẳng như các doanh nghiệp khác, chú ý đến lợi thế mà xã viên và HTX đang được hưởng chính sách ưu đãi của nhà nước.
-  Xã viên: Những người góp vốn đầu tư gián tiếp thông qua HTX đầu tư tài chính vào các công ty cổ phần, đầu tư vào thị trường chứng khoán, tín thác đầu tư qua các tổ chức tài chính khác.
-  Sản phẩm, dịch vụ: Các cổ phần, cổ phiếu mang lại lợi nhuận cho xã viên.
-  Địa bàn: Không hạn chế, trước hết là các công ty cổ phần ở trong nước, trong vùng.
-  Hình thức tổ chức kinh doanh: Tập trung hoặc hỗ trợ xã viên chọn cổ phiếu công ty cổ phần, mua chứng khoán.
-  Vốn: Vốn góp bằng tiền của xã viên, vốn hiện vật được chuyển đổi thành tiền, các chứng từ có giá khác,…
-  Công nghệ: Áp dụng những tiến bộ của thị trường tài chính, sử dụng hệ thống thông tin hiệu quả, an toàn, bảo mật, sử dụng các chuyên gia phân tích thị trường;
-  Thị trường: Thị trường chứng khoán đang giao dịch, thị trường cổ phiếu OTC, thị trường tài chính khác;
-  Nguồn hỗ trợ: Thông qua các chương trình đào tạo.
Tại điểm e, mục 3 Nghị quyết số 13, Hội nghị TW 5, Khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể: “…. Khuyến khích nông dân và hợp tác xã sản xuất nguyên liệu mua cổ phần, trở thành cổ đông của các doanh nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản.”
20. HTX đầu tư kinh doanh bất động sản
Luật Kinh doanh bất động sản năm 2005 quy định HTX là đối tượng của Luật, hợp tác xã được thành lập sàn giao dịch bất động sản: “ Điều 56…2.. Sàn giao dịch bất động sản phải là pháp nhân. Trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh bất động sản thành lập sàn giao dịch bất động sản thì sàn giao dịch đó phải có tư cách pháp nhân hoặc sử dụng tư cách pháp nhân của doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh bất động sản để hoạt động.
-  Xã viên: Cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có tài sản tham gia giao dịch hoặc có kinh nghiệm đầu tư kinh doanh bất động sản, có nhu cầu bán, mua…
-  Sản phẩm, dịch vụ: Hình thành bất động sản và giao dịch bất động sản để mang lại lợi ích.
-  Địa bàn: Phạm vi không hạn chế, trước hết chú trọng những vùng ven đô, những khu vực đô thị hóa, vùng đầu tư trang trại, phát triển khu cụm công nghiệp, khu du lịch sinh thái
-  Hình thức tổ chức kinh doanh:
+ Tập trung: Vốn góp của xã viên là quyền sử dụng đất và tài sản, hoặc HTX thuê, mua lại quyền sử dụng đất của xã viên, sau đó chuyển đổi mục đích sử dụng đất theo quy hoạch hình thành dự án đầu tư để xây dựng hạ tầng bất động sản, trực tiếp kinh doanh và cho xã viên thuê với giá thấp, cho doanh nghiệp khác thuê theo giá thị trường, (trường hợp này đã xuất hiện huyện Sóc Sơn, Hà Nội đã thực hiện được việc mua lại quyền sử dụng đất; việc xã viên góp vốn bằng quyền sử dụng đất khoảng 5 ha để kinh doanh rừng và du lịch sinh thái nhưng gặp những khó khăn do việc sử dụng đất ở thời điểm này quá lộn xộn, nhiều vi phạm chuyển nhượng và đầu tư trái phép)
 Khía cạnh khác, HTX có thể sử dụng giá trị quyền sử dụng đất được bồi thường từ các doanh nghiệp kinh doanh, dùng vốn đó góp vào doanh nghiệp đó hoặc xây dựng dự án riêng, giống như doanh nghiệp để cho thuê.
+ Trường hợp dịch vụ hỗ trợ: Xã viên đăng ký với HTX về bất động sản như trang trại, nhà nghỉ, công trình khác để HTX giới thiệu, tìm kiếm khách hàng, giới thiệu kinh nghiệm đầu tư để xã viên chỉnh trang tài sản, nâng cấp đáp ứng nhu cầu thị trường. Có thể xã viên cho HTX thuê tài sản theo thời gian để HTX kinh doanh, xã viên được hưởng tiền cho thuê và tiền công làm việc cho HTX
-  Vốn: Vốn góp của xã viên, vốn vay; vốn tài trợ về tiếp thị, đào tạo của các chương trình xúc tiến thương mại, thương hiệu, phát triển làng nghề, du lịch, bảo vệ môi trường,…
-  Công nghệ: Áp dụng công nghệ mới, phát triển giá trị hiện đại và kỹ năng tiếp thị toàn cầu.
-  Thị trường: Mở rộng, phần cho xã viên thuê được xác định rõ.
21. HTX kiểm toán
Kiểm toán là một dịch vụ quan trọng phục vụ các cá nhân, tổ chức hoạt động kinh tế và chi tiêu. Một bản kiểm toán minh bạch giúp đối tượng được kiểm toán biết rõ tình hình tài chính của mình để xây dựng chiến lược kinh doanh, hoạch định chính sách tài khoá, trả lời các bên có liên quan trong quan hệ dân sự, quan hệ kinh tế, đồng thời kết quả kiểm toán cũng tư vấn có lợi trong tương lai, xử lý có hiệu quả những vấn đề quá khứ.
Kiểm toán không phải là thanh tra, điều tra. Báo cáo kiểm toán thuộc quyền sử dụng của người được kiểm toán. Có những quy định bắt buộc trong một số quan hệ phải có kết quả kiểm toán, do vậy đã hoạt động kinh tế phải kiểm toán.
Chi phí kiểm toán trả cho các công ty không nhỏ và phiền phức, do vậy việc hình thành các HTX kiểm toán các thành viên rất cần thiết nhằm giảm các chi phí.
Xã viên HTX kiểm toán là cá nhân, hộ, pháp nhân trước hết là những đối tượng có nhu cầu kiểm toán, sau đó là những xã viên có nhu cầu việc làm và sau cuối là những người thuần thuý góp vốn hưởng lời.
Mỗi xã viên, hợp tác xã góp vốn được hưởng đơn giá dịch vụ kiểm toán hợp lý, được tư vấn về tài chính, hỗ trợ các dịch vụ kế toán, thống kê tuỳ theo quy định tại điều lệ, quy chế hoạt động của HTX và hợp đồng kiểm toán.
HTX kiểm toán cần mở rộng thị trường với các đối tượng không phải là xã viên, chấp nhận cạnh tranh nhằm mục đích lợi nhuận.
Kinh nghiệm quốc tế: HTX kiểm toán ở CHLB Đức ra đời từ những năm 1860-1870 xuất phát từ ý tưởng của Schulze, Delitzsch hai ông tổ của Hiệp hội HTX kiểm toán hiện nay, các ông không muốn nhà nước kiểm toán HTX. Kết quả kiểm toán của các HTX được các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan thuế tin cậy. HTX kiểm toán tham gia với HTX từ khi thành lập và các giai đoạn phát triển.
Ở Việt Nam việc thực hiện kiểm tóan nội bộ ở một số HTX thuộc tỉnh Tiền Gian, An Giang, cần thiết thành lập một số HTX kiểm tóan ở một số địa phương như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Thanh Hóa, Quảng Nam,…
22. HTX xây dựng
-  Xã viên: Cá nhân góp vốn, sức lao động, các hộ có nghề, các doanh nghiệp ngành xây dựng và doanh nghiệp đầu tư kinh doanh khác.
-  Sản phẩm, dịch vụ: Nhận thầu xây lắp, đầu tư xây dựng các công trình kinh doanh, các dịch vụ về xây dựng, sản xuất, cung cấp vật liệu,… có thể đầu tư bất động sản.
-  Địa bàn: Theo vị trí các công trình xây dựng.
-  Hình thức tổ chức kinh doanh: Kinh doanh tập trung, có thể dịch vụ hỗ trợ các thành viên là các hộ xã viên nhận khoán, chia sẻ công việc với các doanh nghiệp.
-  Vốn: Vốn góp của xã viên, vốn vay, vốn ứng trước của khách hàng.
-  Công nghệ: Áp dụng công nghệ tiên tiến của ngành xây dựng, toàn dụng lao động có tay nghề, lao động thủ công.
-  Thị trường: Theo nhu cầu của khách hàng và khả năng của hợp tác xã
-  Nguồn hỗ trợ: Có thể nhận việc từ các công trình đầu tư phát triển hạ tầng thuộc chương trình quốc gia, các dự án phát triển cộng đồng để tạo công ăn việc làm.
Các HTX xây dựng có thể liên kết thành lập liên hiệp có quy mô lớn để trúng thầu và đầu tư các chương trình lớn. Nếu quy mô HTX nhỏ nên chọn các công trình vừa với kỹ thuật hiện đại, làm nhà thầu phụ với các chuyên ngành hẹp của xây dựng như làm nội, ngoại thất và bảo dưỡng các công trình.
23. Hợp tác xã du lịch
Du lịch nhân dân, xã hội hóa du lịch ý nghĩa 2 chiều:
(1) Cung cấp dịch vụ: Hợp tác cá nhân, gia đình, pháp nhân có sự phân công, phân nhiệm, chia sẻ lợi ích để làm dịch vụ du lịch bao gồm đầu tư hạ tầng các địa điểm dịch, làm các chuyến du lịch (tuor), kinh doanh ở nơi khách đến, bán dụng cụ, thiết bị, hàng hóa du lịch, bán bảo hiểm và thực hiện dịch vụ bảo hiểm,…
Ví dụ, du lịch sinh thái, văn hoá, làng nghề, dưỡng bệnh bằng phương pháp y học cổ truyền,…cần liên kết các hộ đang sở hữu các giá trị vật chất và phi vật thể. HTX có thể huy động vốn góp của xã viên đầu tư hạ tầng, quảng cáo tiếp thị, giới thiệu khách đến.Với cách đầu tư tập trung, tiếp thị tổng thể sẽ giảm chi phí cá biệt của mỗi hộ kinh doanh du lịch, mang lại hiệu quả trực tiếp cho xã viên kinh doanh phục vụ du khách.
(2) Sử dụng dịch vụ du lịch: Nhu cầu số đông xã viên và người lao động được HTX du lịch thoả mãn với chi phí hợp lý.
Xã viên sử dụng dịch vụ du lịch của HTX thường xuyên, ổn định được ưu đãi về giá mỗi chuyến du lịch. HTX lấy lãi kinh doanh du lịch để giảm giá cho xã viên trong những chuyến tham quan, học hỏi kinh nghiệm làm du lịch ở nơi khác.
(3) Ý nghĩa kinh tế xã hội: Thực hiện được văn minh du lịch, tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, đeo bám, làm phiền hà khách; tạo dựng hình ảnh, thương hiệu để tăng số lượng khách đến, ngày lưu trú, giá trị mua xắm, sử dụng dịch vụ.
24. Hợp tác xã dịch cộng đồng
-  Xã viên: Những cá nhân, hộ, pháp nhân có những nhu cầu thường xuyên, giá trị nhỏ, hoặc những yêu cầu mang tính văn hóa truyền thống như lễ hội, tang lễ, cưới hỏi, thăm hỏi giúp đỡ khi đau ốm, gia đình có việc vui, buồn,…
-  Sản phẩm, dịch vụ: Các dịch vụ mà các tổ chức khác không muốn, không có khả năng đảm nhận do quy mô nhỏ và hiệu quả không cao. HTX có thể phát phiếu thăm dò nhu cầu của cộng đồng dân cư để tính được nhu cầu chung, nhu cầu của mỗi nhóm sở thích,…tiến tới tham gia đầu tư, quản lý khai thác các dịch vụ công cộng như hoạt động văn hoá, giáo dục cộng đồng, thể dục thể thao, tư vấn pháp luật, tư vấn đầu tư, tiêu dùng,…
-  Địa bàn: Gắn với một cụm dân cư nhất định.
-  Hình thức tổ chức kinh doanh: Tập trung, sử dụng lao động là xã viên các cộng tác viên, người lao động tự do.
-  Vốn: Vốn góp của xã viên, vốn vay, vốn ứng trước của khách hàng theo quý và cả năm, các khoản lệ phí của thành viên tham gia mỗi nhóm,…
-  Công nghệ: Áp dụng các công nghệ đạt tiện ích, giảm chi phí trên mỗi dịch vụ.
-  Thị trường: Xã viên, khách hàng trên địa bàn.

-  Nguồn hỗ trợ: Tận dụng các nguồn của Chính phủ, các NGO, các nhà tài trợ theo chương trình dự án./.

Thứ Bảy, 22 tháng 10, 2016

BÀI TOÁN KHỞI NGHIỆP

Tiệm cà phê Trang có số liệu bán hàng:

Bạn định khởi nghiệp hãy trình bày đầy đủ nội dung 1,2,3,4 là gì, mối liên hệ giữa các khoản mục và trả lời các câu hỏi

Hòa vốn khi nào?

Lãi bao nhiêu?  Yếu tố 1,2,3,4 ảnh hưởng đến lãi. Cho ví dụ định hướng kinh doanh lâu dài trong thị trường cạnh tranh,...

Chúc bạn thành công.

Lưu ý: Cà phê là ví dụ, bạn thay đổi bằng các mặt hàng, dịch vụ khác, nhóm mặt hàng dịch vụ,...
Đừng vội sử dụng các phần mềm chuyên dụng. Hãy tính toán số học.



Khoản mục
và đơn vị tính
Ký hiệu
Tháng thứ 1
Tháng thứ 2
Tháng thứ 3
1. Giá bán/ly cà phê (1000vnd)
P
20
20
20
2. Chi phí cố định/tháng  (1000vnd)
F (định phí)
5000
5000
5000
3. Chi phí biến đổi/ly  (1000vnd)
V (biến phí)
10
10
10
4. Số ly bán được  trong  một tháng (ly)
SL
1800
3000
4500

Thứ Hai, 10 tháng 10, 2016

Bữa cơm TRÀNG AN cuối cùng
----
Ngày 11/10/1954, sau các nghi lễ tiếp quản Thủ đô, tưng bừng vui vẻ như ngàn xưa "Thăng Long phi chiến địa". Trở về với cuộc sống hòa bình. Tôi mời một người bạn lính chiến thuở chiến khu chiến trận về nhà.

Bố mẹ, em gái vui mừng khôn xiết đón con em chiến sỹ chiến thắng.
Vội quá, không kịp báo trước, trở về đúng bữa gia đình vừa bày cơm lên bàn.
Cảm xúc trào dâng, vẫn như xưa, vui là chính, chiều làm cỗ tính sau.
Người lính đồng quê chút ngạc nhiên bối rối trước lối sống Tràng An nhẹ nhàng, nhẹ nhàng như chẳng có gì mà dễ chịu.
Cả nhà mời cơm thân thiện (xem ảnh mâm cơm minh họa, chú ý đĩa rau muống hôm nay).
Mẹ nhắc em gái ra chợ, nhưng tôi ngăn, bảo để chiều.
Vẫn nguyên trang ngày tôi theo tự vệ thành Hoàng Diệu đi bắn đòm, nhà bình dân có gì đem ra làm chiến lũy.
Cùng bạn ra ban công ngắm phố phường, chậu hoa quỳnh vẫn còn, cành ngọc lan vươn lên cùng hoa sữa. "Phố vẫn như xưa từ lúc anh đi"- Em gái tôi bảo thế.
Sau này anh bạn lính rất ấn tượng, anh kể " Mình ngạc nhiên nhất là bữa cơm đầu tiên, rau muống rất ngon, cái gì cũng ngon, nhưng thiếu gì rau mà đĩa rau chỉ có chừng 20 ngọn?".
Tôi cũng ngạc nhiên về sự tinh tế của bạn, nhưng hiểu và trả lời "Nếp sống Tràng An nó thế, không thiếu đâu, Mẹ mình chọn từng ngọn trong mớ rau người quen ở ngoại thành gánh rong bên rau bên hoa. Mẹ mình nói, nếu nhà vắng cứ buộc rau và hoa vào tai khóa". ...
Năm tháng trôi đi, lại binh đao chiến trận bắn đòm ác liệt hơn, vời xa đến hơn 20 năm sau người bạn năm ấy gặp lại, mình bảo các cháu làm cơm như ngày 11/10 ấy vì quý tinh tế của bạn, chúng nó hiểu nhưng đĩa rau muống đầy hơn, cả hai cùng nhìn, mình không trách cháu.
Nhưng cả hai chợt hiểu rằng, bữa trưa 11/10/1954 hôm đó, hai người lính áo trấn thủ còn bụi đất trở về Thành phố quê hương được hưởng bữa cơm cuối cùng của Tràng An.
Phàm đầy chưa hẳn là xấu.
Ôi Thăng Long còn đâu bữa cơm Tràng An.
CCB hai cuộc chiến kể.
--------------

Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An.

Thứ Sáu, 26 tháng 8, 2016

Sự nguy hiểm của " Nhóm lợi ích- tạo dựng doanh nghiệp RỖNG"

- Lưu đồ ví dụ cho một ngân hàng bán giá bằng 0. Điều nay xảy ra ở các doanh nghiệp trong kinh tế thị trường. Đó là cách rửa tiền tàn nhẫn. Các cổ đông (đại diện vốn góp) trong nhóm lợi ích "tay trắng ra đi", nhưng trước đó nó thu hồi và phân tán vốn, lãi lợi cực xấu!

- Những kẻ phạm pháp bị lộ có thể bị truy tố, nhưng hậu quả rất lớn!

- Vấn đề giám sát "Bắt bài" dường như bị bỏ lơ từ phía công quyền, các cổ đông nhỏ lẻ.


Chủ Nhật, 19 tháng 6, 2016

NHỌC NHẰN NGHỀ KHÒ CHỮ


Đến ngày BC, rạo rực niềm vui và nỗi niềm.
Dẫu sao đã từng là biên tập viên đong xèng báo chí cách mạng ông Cụ.
Kỷ niệm nhỏ khó quên phết:

1. Lúc đi học, thầy toán yêu, cô văn thích, toán tốp 10 văn thì có 1-0-2, sau này thì sử lên ngôi ở các lớp dặt dẹo, riêng tư tưởng ông cụ thì 9.5 chưa từng có trong lịch sử môn học ở lớp bồi dưỡng kỹ thuật bắn đòm cao cấp.
Dưng miềng theo khối A cho oách giai. Bọn học văn siêu đẳng khóa ấy vẫn kính nề tay viết thông thoáng, khoáng đạt nhất là bình luận chủ nghĩa anh hùng cách mạng và chất lãng mạn cộng văn sản và ngôn ngữ nhân dân…Bọn lớp trên phải mượn tập vở của miềng đọc văn, bao năm điểm tổng kết văn miềng toàn nhất lớp, khối cỡ trên (6, nhí) thoai. Cô dạy văn băn khoăn khi miềng quyết thi khối A, đoạn tuyệt một con đường dẫn tới “thiên tài” như cô nói cả đời 20 năm dậy chưa thấy văn phong chữ viết ai hay chẹp hơn Kiểm.

2.Những bài học thuật cao kiểu zư sắp bảo vệ tiến sỹ, lấy điểm công trình phong giáo sư, hoặc cỡ giám đốc sở trở lên đánh bống tên tuổi để thăng chức đều qua tay miềng Edit. Nay nhiều cô chú đang thượng cấp, vào Bê và có một số về hiu rồi. Họ có thể nhớ hoặc quên, chẳng quan trọng gì.

2.1. Một lần xử lý bài cô A,…miềng đọc và phát hiện ra đó là bài lược từ sách giáo trình đang cũ ở NEU, miềng phải trao đổi với tác giả là cô giáo đại học đang “rau muông chấm cơm”. “Rau muống” nói: Đấy là sách của bố tôi,…Ôi giời ơi, suýt ngất trên bàn,…bình tĩnh chuyển hướng thì ra cô là con dâu của Bộ trưởng, Chủ nhiệm, sau cha con đều làm Bộ trưởng CNVP CP.

 2.2. Một thằng chém gió bàn bia, sau nó mang bài đến vì sắp bảo vệ tiến sỹ. Miềng đọc và phát hiện đó là bài tham luận ở Hội thảo học viện Ông Cụ. Thằng này bố láo đến mức xóa mẹ tên cha, viết tên nó vào. Miềng bảo bài tham luận của tác giả khác. Nó lại bảo bố đẻ tôi, lần này thì không thể ngất được, miềng bào chiều nay tu bia, tôi chỉ cho cách lược bỏ, bổ sung chứ để nguyên nó kiện mày chết chứ tao không việc gì, nó sợ mà phải phục.

 2.3. Nhiều lần với một đống báo cáo, báo cầy,…của xyz, Quý báo bảo rmiềng “hàng dựng”, miềng bảo chuyện nhỏ như con thỏ. Cặm cụi dựng lên, đăng bài, giới trí thực học thuật đồn đại đánh giá cao phết- đổi mới tư duy kinh tế, dẫn dắt vào kinh tế thị trường, miềng thì cháo lòng tiết canh tràng lợn non ròn chúng mời chén. Chúng cho miềng một nhời cũng ấm “ Tôi đọc bài ông biên tập, chỉnh sửa tôi mới hiểu tôi định nói gì”

Có lần không đi nhậu được, chúng gửi phông bì, tao nhã phết, cỡ chỉ vàng bằng >3 triệu VND thấy “đâm thuế chém mướn” cũng được. Lần gặp Cụ Tổng giờ, khi đó cũng chỉ hơn mình một ngạnh, cụ viết theo kiểu “ống đu đủ” bọn vào Bê sướng chết đi được, cụ biết miềng là tay viết, khò chữ , đặt miềng viết, mình không nhận lời.

2.4. Hội thảo, bọn chúng đặt bài, miềng viết chuẩn, tư liệu, số liệu sơ đồ óng nuột. Thằng H trong BTC Hội thảo, nay PGS dám cắt đoạn hay nhất của miềng đưa vào bài của một tác giả sắp lên GS. Miềng bảo, ông liều nhở, kiện tụng là ông và bạn ông toi đấy, tài liệu ông đạo cho bạn ông tôi đã đưa vào sách có bản quyền rồi, lúc khác ai phát hiện ra là toi đấy. Nó xấu hổ, bảo “ông bỏ qua”.

2.5. Một bài báo nghiên cứu vớn đề giao thông nông thôn và giám sát cộng đồng sau vụ ăn vạ nhau ở Thái Lọ và nhiều nơi, sắp in thì tay TBT gọi mình tiếp khách, biết ngay mà, ông khách là hiệu trưởng Cao đẳng đang hợp thức làm đốc tơ,…xin bài của miềng. Miềng bảo được, hắn gửi mình đúng tờ 100K ông cụ uống bia, tuy nhiên miềng biết tay TBT cũng no đủ vụ đánh tráo này. Đời vụn vặt giang hồ thiếu gì chỗ vì đã từng nhận 100K ông Obama  thằng khác bồi dưỡng công “khò chữ dựng hàng” thì mặc cả làm gì, tri thức phải “lịch văn lãm”.

2.6. Bọn nghề báo chí chuyên nghiệp thì thôi rồi, chúng rất ẩu khi viết, qua tay mình chúng sướng, nhưng có thằng rất tùy tiện chữ nghĩa, nhất là dùng chữ Tào  kiểu “mục sở thị” tỏ ra là là chứng kiến, miềng bảo “dùng từ khác” chữ nghĩa Việt không đến nỗi thiếu. Rồi chúng bảo “các sếp nói thế nào em viết thế ấy” . Miềng bảo họ nói sai thì  phải biết, chứ họ nói gì viết ấy không được, đừng dông dài mà phải rút gọn, có điểm nhấn và mềm văn phong, tế văn nghị, rưng không tôm cá đâu.

2.7. Thợ báo HT gặp miềng khi zững bài sắc lẹm tung ra trên “Vua Lá Cải”, ông bảo có tính “gây gổ”, rưng lần khác miềng ký bút danh XYZ, HT UVTW đạo bài của miềng đăng lên vườn cải của ông,  sau đưa vào sách cho các thế hệ bí cháo tham khảo. Miềng kệ, đời trộm đạo của bậc cao hơn miềng biết thì anh HT làm nghề mưu sinh, tất yếu bỏ qua.

2.8 Kỷ niệm nữa là một bài nghiên cứu được phát trên đại chúng, miềng nhận được điện thoại từ các tay báo gạo cội như TP,X,Z…và một người có vẻ zư tiền bối, tỷ tê hỏi rằng miềng sinh năm 3 mấy hay 4 mấy, kinh qúa,…miềng cười mà rằng đó là năm sinh của “bố em”. Bọn cò thường dẫn khách như NCS nước ngoài từ US, Denmark, Laos, Japan trao đổi học thuật, thông tin, bọn chúng lắng nghe, kính trọng zưng not payment, thằng Japan ở JETRO đầu gập xuống tao nhã tặng miềng cái quạt kiểu quân sư,…


Những tay “Editors” miềng gặp chúng cũng chật vật, nhọc nhằn, có thằng kể, có sếp bảo “ông cứ sửa ngữ pháp cho tôi” nó bảo “cái đó thuộc bác” cả tập 500 trang nó biên tập được triệu bạc ông Cụ, kêu như vạc.

Huynh đại ca, TTBBT cũng từ báo đi lên, Huynh không giỏi viết nhưng nói, chém gió kinh, cứng sắc, kiên cường tỷ như không đa đảng là không, nếu phải hy sinh hết thì BBT, BCT phải sống để dẫn dắt dân tộc làm lại cuộc đời, đại thể vậy mà huynh cạ với bác cả xây dựng Đảng kiểu tò vò. Trên diễn đàn huynh chém mạnh uống nước chém càng dữ.

Tư tưởng chỉ đạo là miềng đặt miềng vào cần lao trung bình tiên tiến đọc hiểu được chứ không cường hào báo áp chế người đọc, hoặc cao siêu học thuật. Để có được kỹ năng nghề, miềng đọc sách nghề của Mỹ xuất bản ở VNCH,…thấy hay phết về khái niệm, phương pháp, cấm kỵ,... mà tên T đầu trưởng HV BC bảo là “phản động”.

Và các đống tư liệu chồng chất đặt từ đất lên trên bàn làm việc miềng đều đọc đánh dấu với một Me-mo-ry “thiên tài” như “tiên tri” của cô giáo dậy văn.

Em không bao giờ quên mong muốn kỳ vọng của Cô.

Thứ Hai, 22 tháng 2, 2016

AN TƯ CÔNG CHÚA (Liệt truyện)

Ảnh minh họa, nguồn IT

AN TƯ CÔNG CHÚA (Liệt truyện)


Nàng con út, công chúa nhỏ của Trần Thái Tông, em gái vua Thánh Tông. Mama của công chúa không rõ ai, nhẽ cũng là một bà xinh đẹp đâu đó trên con đường vua cha vi hành, hoặc bọn đệ quan dâng. Thời nào cũng vậy.

Là một trong tứ đại mỹ nhân Việt Nam,  hơn cả là An Tư xinh, thông minh, Cha Thái Tông và anh giai Thánh Tông yêu thương nhất trong số đông đảo hoàng tử, công chúa.

Nàng có đặc điểm là thân thể thơm tho do ăn sạch, lại có tài cầm ca, nói viết tiếng Tào ngang với nói vẽ tiếng Ta. Mắt nàng to trong sáng, ngây thơ đến quỷ thần đêm ngày hiện lên lấp đâu đó nhìn trộm. Bọn con gái trang lứa ghen, bọn giai già trẻ hoàng thân quốc thích thì chỉ muốn cưới Nàng. 

Công chúa trẻ trung trăng rằm sáng tỏ vùng trời Long Thành, Vua cha đã là Thái Thượng hoàng, anh làm vua mà lúc nào vi hành cũng cho em gái An Tư đi cùng không chỉ làm đẹp mà để đối đáp với đám nha lại có nhiều tên phàm tục. Thiết triều, Vua cũng chỉ cho em gái bưng chung trà ngự, khiến bọn quan lại chầu triều sáng mắt, ít buồn ngủ.

Giai thời loạn, gái  thời bình. An Tư đang có mối tình lãng mạn với một giai Hà Thành, ăn học cung kiếm dẻo dai, văn chương lưu loát. Chàng chỉ là con một võ quan trung bình trong quân nhà Trần, đóng đồn ở Cầu Giấy.

Thoát Hoan, con thứ chín, giai đẹp nhất của Hốt Tất Liệt, cũng không rõ mẹ, có thể là một bà nào đó ở phía Bắc gần vùng đất cũ của zợ Hung Nô, Khiết Đan, Nhung địch mà tên nào đó bắt về. Thoát muốn lập công hòng kế ngai của cha, nó dẫn đại quân tràn vào Đại Việt, thế như chẻ tre dựng trại ven Nhĩ Hà đánh xuống làng Tức Mặc bắt hụt cha con vua.

An Tư theo cha anh hóng  chiến sự. Nàng băn khoăn không biết làm cách nào, sau đó quân Trần tóm được một viên tướng nhỏ của Thoát Hoan, Nàng xin lấy cung hắn. Tên tướng này cũng đẹp giai, vừa gặp Nàng nó đã bủn rủn chân tay không phải sợ mà thấy Nàng đẹp quá; đời chinh chiến hàng vạn cây số với triệu triệu dân đi qua nó chưa thấy ai đẹp như An Tư thánh thiện, thông minh, vui vẻ, nhẹ cành. (Đây chính là mẫu của họa sĩ Tô Ngọc Vân, Nguyễn Sáng và Nguyên Phan Chánh,…)

Sử không chép đoạn này, nhưng qua chuyện, An Tư biết Thoát Hoan thích gái đẹp theo kiểu của nó, nó từ chối nhiều lần hiếp, nhưng lại để quan lính tự do hiếp, dã man.


Thằng tướng giặc Nguyên được thả ra, nó đã mang những hình ảnh đẹp của An Tư về cho Thoát Hoan, cùng với những thỏa thuận đặc biệt là giảm hiếp giết cướp và giãn lộ trình xâm lược (thư nạn cho nước). An Tư có nói với Thoát “Trước sau Vua Trần cũng thua, quân Nguyên nên nghỉ ngơi tận hưởng giời Nam gió mát, sản vật ngon, đi câu cá quả nướng, ngưng chiến vài tháng”.


Thoát Hoan đồng ý và bắn tiếng với Vua Trần phải nộp An Tư.

Trần Thánh Tông thiết triều nội bộ, rút gươm chém phát đứt đôi cái trống trận mà rằng “Quân man rợ, Ta thề chết không thể nộp em gái”…Nhưng Triều lại tính toán khác, định đưa công chúa khác thay An Tư nhưng không có ai xung phong, bắt con dân thì lộ,…An Tư dự họp, Nàng thưa với cha, anh hoàng tộc nhận việc đó với toan tính ABC. Thái Thượng hoàng đau xót, ông biết nhiều hơn, và thuyết phục vua Thánh Tông đồng ý với kế sách mạch lạc.

An Tư đi về trại Thoát Hoan. Khi chia tay, vua anh, vua cha khóc nhiều hơn bọn công chúa vốn ghen ghét An Tư… Quân Nguyên dẫn Nàng về dinh Thoát Hoan, đồ nghề hồi môn khá đậm,…có người lính đuổi theo, bọn quân Nguyên chặn lại hỏi mày là ai, người lính chân đất này bảo “Tao là người tình của An Tư”, chúng xô chàng ngã.


Đúng kế sách, đêm đầu tiên, Thoát Hoan hoa mắt sau những ly riệu “hợp cẩn” và đồ lễ của vua Trần không đến nỗi hẻo, thậm chí rất đậm so với nẻo đường chiến tranh cướp bóc mà hắn tận hưởng.

Sử kín bưng, An Tư đã khiến Thoát Hoan mê muội, ngưng binh, lính tráng thì ngưng chiến, chén ngon là sướng. Vua Trần tranh thủ chiêu binh mãi mã, dò thám trận địa quân địch. Giã sử kể rằng, mùi thơm của An Tư khiến Thoát Hoan đê mê, đã thế nàng lại nói viết vẽ tiếng Tào hay, có lúc Thoát Hoan bảo, Nàng là người Tào, rất bố bậy!

Cuộc phản công mãnh liệt, Thoát Hoan chui ống đồng chạy, An Tư cũng được ngồi kiệu chạy xấp ngửa. Toán quân Trần đuổi dữ, trên đầu đoàn có một viên tướng trẻ thét gào gọi “AN TƯ, AN TƯ,…anh đây” chìm trong đám loạn quân. Chàng đuổi nhanh, bỏ qua quân ta phía sau rồi lại ngã không dậy được. Thì ra, phút cuối, chính An Tư lệnh cho cung thủ bắn vào chân chàng, vì nếu để chàng đuổi theo tình yêu thì sẽ chết trong đám loạn quân ở bờ Bắc sông Hồng.

Sử ta lờ đi, sử Tào ghi, An Tư sanh hai con với Thoát Hoan thì phải.

Nàng không được đánh bóng tên tuổi, không được vua Trần ban thưởng, nhưng vua anh, vua cha đã khóc một ngày ròng, họ ăn chay ngồi im lặng thương xót đứa con, người em gái xinh đẹp đã làm được việc lớn cho đất nước, cho nhà Trần, cứu người tình thuở học trò.

AN TƯ ĐÃ ĐI VÀO VÔ ĐỊNH.


Thứ Năm, 18 tháng 2, 2016

CÁO BÌNH TÀO

                                                                   


CÁO BÌNH TÀO

----

Đang ngon lành thì ông Mao giở chứng
Năm 74, 19, tháng Giêng chúng cướp Hoàng Sa
Anh em chiến sỹ Việt Nam cộng hòa
Chiến dũng cảm liều mình danh người LÍNH
Ngày 17-4- Bọn Khờ me toan tính (1975)
Được quân Tào hỗ trợ chiếm Nông-Pênh
Năm 76 dưới chân núi Bà Đen
Khờ me đỏ tràn sang cướp giết hiếp
Bọn giặc áo đen chúng không bao giờ biết
Những Rạch Gầm Xoài Mút năm xưa (1)
Qua mùa mưa, đến 79 mùa khô
Ta phản công ngập tràn lãnh thổ
Đặng Tiểu Bình điên cuồng đầu sắp nổ
Hắn thét gào xâm lược Việt Nam ta
Năm 78 vụ nạn kiều người Hoa
Chúng tự bẫy, bọn kiều chuồn sạch bách


Ngày 28 mùa Thu biên ải Bắc (*)
Tàu côn đồ sang gây gổ quân ta
Phá cửa khẩu bọn Hoa Kiều tràn ra
Trung Nam Hải điên cuồng kêu chuẩn chiến.


Hứa Thế Hữu –Liễu Thăng hồn đầy hận
Thúc quân Tàu áp sát ải Chi Lăng
Dương Đắc Chí gã Mộc Thạnh Vân Nam
Lùa sơn cước vào Lào Cai, Bản Phiệt.


Ngày 17 tháng 2 đầy oan nghiệt
Bọn giặc Tàu tràn ngập khắp biên cương
Chúng cướp phá giết hiếp dân thường
Lũ súc sinh như tổ tiên chúng nó


Thác Bản Giốc nước tràn vào Cốc Pó
Mảnh đạn bay chim sẻ rúc bụi bờ
Tiếng tù và “Tả khoái” giặc hét hò
Chúng xâm lược cứ như là đi hội


Những thằng dân binh lính Tàu đắc tội
Cướp bao khoai hiếp trẻ, giết người già
Nhiều thằng chết miệng sùi trắng bọt ra
Chúng nhá khoai nuốt các đồ cướp đoạt


Các trận địa quân dân ta đồng loạt
Giáng giặc thù thế đã định từ lâu
Chúng ngã xấp, bỏ chạy ôm chặt đầu
Đến hôm nay nhiều tên còn khiếp sợ (2)


Ngày 22 ta chiến công rực rỡ (**)
Đuổi quân Tàu lũ chó dại cúp đuôi
Thâm Mô, Châu Cảnh trận tuyệt vời
Đêm pháo hoa rực rỡ trời Biên ải


Hứa thế Hữu- tướng già kêu oai oái
Chúng tăng cường binh lực tận Thành Đô
Chiến thuật hủ biển người giặc tràn vô
Pháo binh chúng bắn tràn miền biên giới (***)


Các sư đoàn Việt Nam chuyển quân rất vội
Từ Nghệ An lên chưa đến 2 ngày
Đoàn Khánh Khê (3) giăng thế trận thẳng tay
Cùng sư Ba đã 10 ngày kịch chiến


Trận phía Tây, đường Cốc Sam - Bản Phiệt
1000 thằng Tầu bỏ mạng chỉ một đêm
Trận Cao Bằng tiểu đoàn ta rất êm
Phục kích đánh tan Trung đoàn tinh nhuệ


Dương Đắc Chí ngấm đòn đau mặt xệ
Gượng hét hò khua binh lính Vân Nam
Mạn Quảng Ninh kịch chiến Cao-Ba-Lanh
Trả hận thù Pò Hèn Tầu đánh úp.


Sang tháng Ba Đặng Tiểu Bình đã nhụt
Chậm lui quân chắc chắn tội phải đền
Thế trận giăng, võ khí mới đưa lên
Toàn của Nga, bây giờ còn bí ẩn (4)


Chúng phá hoại giết dân quăng đầy giếng
Có người thoát, nửa tháng ăn gốc mía (5)
Trận Khánh Khê trước lúc chúng phải lìa
Ôm bộc phá đánh tung cầu 3 mét
Đài Bắc Kinh hò la tin bốc phét
Đánh xập cầu, thực chỉ vỡ cái nong
Ngày 18 tháng Ba coi như xong
Tàu thụt về ngụ bên kia biên giới
10 năm sau còn bao lần lấn tới
Bình Độ 400 năm 81 điên cuồng
Trận Vị Xuyên năm 84 tang thương
Chúng cuồng loạn trút bao nhiêu đạn pháo

***

Thôi nhé, dừng! hỡi bầy quân bố láo
4000 năm ta đã biết tay nhau
Thôi nhé Tàu! hãy quên đi nhục đau
Vĩnh viễn nhá, đừng giở trò hung bạo…
Ngày 14 tháng 3 năm nhộn nhạo (1988)
Cướp Gạc Ma biển đảo Trường Sa
Tàu khốn nạn hơn cả lũ ông cha
Đớp một miếng rồi lên bàn đám phán
Hãy đợi đấy, lũ cuồng điên giặc Hán
Gieo hận thù, bão táp cuốn bay đi
Bọn mắt híp mặt mày chẳng ra gì
Ngày 17 tháng Hai - No Forget (6)
----

(1) Thái Lan chưa bao giờ thừa nhận vụ xâm lược thất bại.
(2) Năm 1993, nghe hai lính Tàu kể lại.
(3) Sư đoàn 337
(4) Lượng vũ khí khủng toàn di chuyển trong đêm, dừng canh gác rồi chuyển dịch nghi binh, tránh Hán gian nhan nhản.
(5) Trong vòng vây, đêm đào gốc mía nhai.
(6) Không quên
(*) Chiến sỹ Lê Đình Chinh hy sinh khi duy trì trật tự người Hoa ở cửa khẩu Đồng Đăng (28/8/78). Anh ngã xuống, người Hoa hoảng sợ chạy về bên kia. Trung quốc cho công an côn đồ sang không cho Hoa Kiều về nhằm ăn vạ Việt Nam.
(**) Trận phản công của Trung đoàn 2, Sư 3 ở khu vực Đồng Đăng
(***) Ngày 27/2/79 Quân xâm Trung Quốc lược tổng lực, dùng pháo binh bắn phá, bộ binh tràn ngập, đến bờ Bắc Cầu Kỳ Lừa (TP Lạng Sơn) thì khự lại.

Tướng Tàu: Hứa Thế Hữu chỉ huy hướng Lạng Sơn; Dương Đắc Chí hướng Lào Cai.