Thứ Ba, 22 tháng 6, 2021

Trường ca Hồ Chí Minh. Phần III. Đế Vương (3101 -3200 )

  Trường ca Hồ Chí Minh. Phần III. Đế Vương (3101 -3200 )

3101. Bia miệng, bia đá lạc trôi,

Tự do Độc lập được Trời đất dung.

Báo chí hò hét tùng tùng,

Đế khuyên vòng nhắc chết đừng vống cao.

Pa-ri[1] bốn phía lao nhao,

Cối chày nhịp thấp nhịp trào trước sau.

Hoa Kỳ dư đạn đánh nhau,

Hiện sinh chủ nghĩa vào đầu viễn chinh.

Chết nhiều, dân Mỹ giật mình[2],

3110. Quan tài bay lượn Thái bình dương qua.

Phong trào phản chiến xông pha,

Đốt thẻ quân dịch hét la phố phường.

Nửa triệu lính Mỹ, lê dương,

Đánh thuê cho Thiệu chiến trường mở ra.

Tưởng ngon xơi miếng chả gà,

Đệ nhị thế chiến khác xa lần này.

Chiến Mỹ khó hơn đánh Tây,

Việt cộng sáng tạo đổi thay cách đòm!

Quân tướng kháng Pháp vẫn còn,

3120.Binh chủng hiện đại ra đòn mới tinh.

Đấu với nhà nghề viễn chinh,

Nguỵ quân từng chiến Việt Minh dạn dầy[3],

Chư hầu từ Đông sang Tây,

Liên quân hợp chủng đóng đầy miền Nam[4].

Liên xô, Trung Quốc rất ham,

Những mong Bắc Việt mời tham chiến cùng[5].

Thế giới đang tuổi điên khùng,

Giai tơ gái mấng muốn dùng thịt cơ.

Mây đưa, hạc đón từng giờ,

3130.Thần chiến tranh chán cuộc cờ sát nhân!

Lợi quyền mớm miệng thứ dân,

Thắng thua sống kiếp đời cần lao thôi.

Ba ba cắn đũa là toi,

Bao nhiêu tôm cá mắc mồi câu ngon.

Muôn năm tìm cuộc vuông tròn,

Vợ chồng Tạo hoá sống còn cãi nhau,…

 

Chiến dịch tìm diệt xiên xâu,

Xăm hầm Việt cộng, mua đầu giá cao,

Da cam[6] diệt cỏ thấp cao,

3140.Thả cây nhiệt đới[7] căng rào đóng quân.

Đánh nhau, Việt cộng ở trần,

Hỏa tiễn, bộc phá tiến gần mới phang.

Hai bên dụ nhau đầu hàng,

Truyền đơn bướm trắng loa vàng cánh bay.

Cùng kiểu du kích cù nhầy,

Khe Sanh tử chiến, Làng Vây tử thù,

Thuỷ quân lục chiến, lính dù,

Bom rơi đạn nổ khói mù tầng không.

Biệt cách, biệt động, đặc công,

3150.Trổ tài giết chóc dạ lòng sói lang.

Đắm chìm bùn khẳm ngách hang,

Mậu Thân, thành Huế máu tràn bước chân[8].

Binh đao dân chết hơn quân,

Phật buồn, Chúa khổ, Thánh thần chào thua.

Mậu Thân trái gió trở mùa,

Người nổi tính khỉ hái bừa quả xanh.

Ních-xơn tái nhiệm chiến tranh,

Rút quân nhỏ giọt, Việt giành mạng nhau.

Việt Cộng về núi rừng sâu,

3160.Đói ăn, sốt rét thương đau lấp vùi.

Sắn non chưa kịp bới lùi,

Bom rơi trốc rễ, đạn khui nóc hầm.

Né dạt sang đất bạn nằm,

Chiêu binh mãi mã rầm rầm vào sâu.

Ghế da rách bởi họp lâu,

Pa ri  bế tắc, về chầu đạn bom.

Một ngày hai trăm chiếc hòm,

Dân chúng nước Mỹ chán đòm Việt Nam.

Cháy nhà hàng xóm lửa lan,

3170.Lào, Miên lây chiến phỉ Vàng Pao[9] la.

Lon Nol[10] nổi loạn đánh Ta,

Kong Le[11] nghênh chiến đả Pa thét Lào.

Khơ me đỏ độc lánh vào,

Sau thành Pôn Pốt[12] theo Tào đánh Ta.

Trung cộng nhòm ngó Hoàng sa,

Bóng bàn séc chót, chúng ra tay đòm[13].

Bể xanh máu Việt đỏ lòm,

Khó đòi lại mất thêm hòn Gạc Ma.

 

Năm cùng tuổi Đế vương già,

3180.Mắt mờ chân mỏi tóc pha sương chiều.

Lòng còn vương vấn thương yêu,

Quê hương, cha mẹ cánh diều qua sông.

Duyên tình thấm ướt lệ rưng,

Nẻo đường cách mạng không ngừng đấu tranh.

Đế buồn dạo bước vườn xanh,

Mặt ao cá quẫy, trên cành chim ca.

Tin rằng nước Việt sau xa,

Toàn dân đoàn kết cơm và áo mang.

Tin rằng non nước đàng hoàng,

3190.Hậu sinh khả uý kinh bang cập thời.

Cộng sản thế giới sụt trồi,

Đảng Việt Nam[14] biết giã rời bùn nhơ.

Dù cho đổi nước, thay cờ,

Nước Nam thống nhất ước mơ vẹn toàn.

Bao lần gieo được quẻ Càn,

Vạch Khôn nét đứt bể tràn nước dâng.

Trời cao, đất hẹp chia phần,

Giang sơn liền thổ, nhân dân kết đoàn.

Nương dâu bãi bể cạnh tranh,

3200.Lấy dĩ bất biến, cao xanh hài hoà.



[1] Hội nghị Paris ở thủ đô nước Cộng hòa Pháp. Thời gian đàm phán từ tháng 5-1968 đến tháng 1 -1973. Các bên tham gia ban đầu chỉ có Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Hoa Kỳ; sau mở ra thành hội nghị 4 bên, có thêm Việt Nam Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt NamChính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam cũng đã đưa ra các giải pháp hòa bình, trong đó đề nghị 10 điểm ngày 8-5-1969 mà sau này đã trở thành xương sống cho bản Hiệp định năm 1973.

[2] Trong số ngoại quốc tham chiến, người Mỹ có số thương vong cao nhất với hơn 58.000 người chết và hơn 305.000 người bị thương (trong đó 153.000 bị thương nặng hoặc tàn phế). Vào khoảng từ 4.400 đến 5.000 binh sĩ Hàn Quốc bị chết và khoảng 11.000 bị thương; Úc có khoảng 500 binh sĩ chết và hơn 3.000 bị thương; New Zealand có 38 chết và 187 bị thương; Thái Lan có 351 chết và bị thương; còn Philippines vẫn chưa có con số thống kê cụ thể. Trong chiến tranh, con số này được cập nhật hàng ngày và công khai sớm.

[3] Hầu hết tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa xuất thân binh nghiệp từ trước năm 1955 theo Pháp chống Việt Minh.

[4] Các quốc gia có quân đến Việt Nam tham chiến cùng Mỹ giai đoạn (1955–1975) gồm: Hàn Quốc, ÚcNew Zealand, Thái Lan, Lào, CampuchiaPhilippines. 

[5] Quân đội Liên Xô, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên giúp Việt Nam chống Mỹ giai đoạn (1955–1975), chủ yếu đóng quân ở Miền Bắc.

[6] Chất độc da cam là tên gọi của một loại chất thuốc diệt cỏ và làm rụng lá cây được quân đội Hoa Kỳ sử dụng tại Việt Nam. Chất này không có màu và được chứa trong các thùng màu da cam (do vậy trong vụ kiện hậu quả của nó được gọi nhầm là chất độc màu da cam). Chất này tác hại đến môi trường lâu dài, tổn hại sức khỏe con người và di chứng. Đến nay, Chính phủ Hoa Kỳ vẫn từ chối trách nhiệm với những nạn nhân này.Tuy nhiên vào tháng 5/2007, Quốc hội Hoa Kỳ đã phân bổ khoản ngân sách 3 triệu USD nhằm khắc phục ảnh hưởng của chất độc da cam và môi trường tại một số điểm nóng nhất và năm 2009 tăng lên 6 triệu USD. 

[7] Những thiết bị điện tử của quân đội Mỹ gồm khoảng gần 100 loại khác nhau được rải xuống rừng núi Trường Sơn, được mệnh danh là những "thám tử giấu mặt", những "kẻ gác đường". Có những máy radar nhỏ rải rác khắp các nẻo đường để phát hiện tiếng động hoặc tia hồng ngoại do các xe cơ giới phát ra, báo về trung tâm chỉ huy. Có những máy đánh hơi được mùi amoniac trong mồ hôi để gọi máy bay oanh tạc tới.

[8] Trận Mậu Thân tại Huế (Cố đô Nhà Nguyễn) là trận chiến kéo dài 26 ngày giữa Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam với Quân lực Việt Nam Cộng Hòa và đồng minh Hoa Kỳ trong sự kiện Tết Mậu Thân. Trận chiến này cũng là một phần của Chiến tranh Việt Nam. Đây là một trận đánh ác liệt nhất trong đợt 1 Tổng tiến công Tết Mậu Thân. Dù quân Giải phóng bị đánh bật khỏi Huế song nó mang lại sự đổ vỡ tâm lý và chính trị lớn nhất cho Hoa Kỳ.

[9] Vàng Pao (1929-2011) là người H'mong đầu tiên được phong hàm tướng Quân đội Hoàng gia Lào. Ông từng được mệnh danh là vua Mèo tại Thượng Lào từ năm 1960. Trong Chiến tranh Đông Dương, Vàng Pao được CIA nâng đỡ để chỉ huy Quân khu II ở miền bắc nước Lào chống lại Pathet Lào và việc sử dụng đường Trường Sơn của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong chiến dịch mang tên "Cuộc chiến bí mật"

[10] Lon Nol (1913 - 1985) là chính trị gia Campuchia giữ chức Thủ tướng Campuchia hai lần cũng như đã liên tục giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dưới thời vua Norodom Sihanouk. Ông tự tuyên bố là tổng thống nước Cộng hòa Khmer sau khi thực hiện cuộc đảo chính chống lại chính quyền Sihanouk vào năm 1970. Ngày 12-3-1970, Lon Nol và Sirik Matak hạ lệnh đóng cửa cảng Sihanoukville, nơi vận chuyển vũ khí tới tay Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đồng thời ban hành tối hậu thư yêu cầu tất cả lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng Miền Nam phải rút khỏi đất Campuchia trong vòng 72 giờ hoặc phải đối mặt với hành động quân sự.

[11] Kong Le (1933-2014) là đại úy tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 nhảy dù Quân đội Hoàng gia Lào, người tiến hành cuộc đảo chính nhằm lật đổ chính phủ Hoàng gia Lào năm 1960.  Ngày 13 -12-1960, quân của hoàng thân Phoumi Nosavan tiến chiếm thủ đô Lào. Lực lượng của Lữ đoàn dù của đại úy Kong Le bị đẩy bật ra khỏi Viêng Chăn.

[12] Saloth Sar (1925 -1998), là Thủ tướng của Campuchia Dân chủ từ năm 1975-1979, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Kampuchea từ 1963-1981, là lãnh tụ phong trào cộng Khmer Đỏ gây ra nạn diệt chủng ở Campuchia giết hại đến 2 triệu người từ năm 1975-1979.

[13] Ngoại giao bóng bàn nói tới sự kiện giao lưu giữa những cầu thủ bóng bàn Hoa Kỳ và Trung Quốc trong những năm đầu thập niên 1970, bắt đầu trong suốt Giải vô địch bóng bàn quốc tế ở Nagoya, Nhật Bản. Sự kiện đã đánh dấu việc ấm lên quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc mở đường cho chuyến thăm tới Bắc Kinh năm 1972 của Tổng thống Richard Nixon và ra Thông cáo chung Thượng Hải, Hoa Kỳ công nhận Đài Loan là một bộ phận của Trung Quốc…

[14] Hồ Chí Minh tuyên bố trước Quốc hội khóa I, Kỳ họp thứ hai, rằng: “Tôi chỉ có một đảng, đảng Việt Nam”.

Thứ Năm, 17 tháng 6, 2021

Trường ca Hồ Chí Minh. Phần III. Đế Vương (3001 -3100 )

  Trường ca Hồ Chí Minh. Phần III. Đế Vương (3001 -3100 )

3001.Bờ gai, búi cỏ bùng nhùng,

Lý luận chầy cối phát khùng nổi điên.

Song hành lợi ích bạc tiền,

Tranh mồi di giống tự nhiên sinh tồn.

Cho rằng mình đúng, mình khôn,

Không chung cách nghĩ phải dồn ép nhau.

Thế gian đa dạng từ lâu,

Tôn giáo, sắc tộc nhiều màu đỏ đen.

Hoà bình, hoà hợp vững bền,

3010.Song song đồng hướng, phương miền tự do.

Nhất điền vạn chủ sống nhờ,

Sông dài biển lớn, bến bờ thông nhau.

Lão tử xưa thấm nỗi đau,

Khuyên vua các nước đối đầu phải nguôi:

Diện tích các nước nhỏ thôi,

Nghe chung gà gáy, giọng người qua sông.

Bang giao giữ lấy tấm lòng,

Đạo phu thê sống thuận tòng sẻ chia.

Biên cương chồng lấn riềm rìa,

3020.Núi sông hào lũy, cây que cắm rào.

Bắc Nam hai nửa địa cầu,

Nam nghèo tăm tối, Bắc giầu phát quang.

Đông Tây phân cực rõ ràng,

Người Tây thực chứng, Đông đàng tâm linh.

Nhiều lần đệ hỏi Đế Minh,

Ngoại xâm nhòm ngó nước mình, sợ ai?

“Đế sợ các chú chạy dài,

Đoàn kết trụ cột chiến hoài là xong”.

Chiến thắng Ấp Bắc[1] nức lòng,

3030.Mặt trận Giải phóng thành đồng miền Nam.

Trường Sơn xẻ dọc, xiên ngang,

Đường mòn trên biển vận hàng chiến tranh,...

 

Ta mềm giặc lấn rất nhanh.

Gia Long nhảy cóc dinh thành Phú Xuân,

Bỏ Quy Nhơn, đốc thúc quân,

Điều binh khiển tướng chia phần Thăng Long.

Diệm hô: Bắc tiến, lấp sông,

Nhảy dù ăn phở, cháo lòng tiết canh,

Trở về đình miếu Hà Thành,

3040.Bái lậy tiên tổ chiến tranh đã tàn…

Nam luận cùn: Bắc xâm lăng,

Non sông là một đất bằng từ xưa.

Đấu tranh huynh đệ thắng thua,

Lúa vàng trúng vụ, mất mùa cau xanh.

Tự quyết là quyền chính danh,

Thần Tự do Pháp hiểu nhanh chuồn rồi.

Hoa Kỳ toan tính đánh hôi,

Lê dương chinh chiến đất trời Việt Nam.

Đức nhân biến thành lòng tham,

3050.Tự do dân chủ hóa phàm tục hư.

Người Việt-Mỹ chẳng thâm thù,

Chỉ lũ hiếu chiến hoả mù chúng dân.

Đổ quân chiếm cứ Nam phần,

Nghĩ rằng trật tự, liên quân vãn hồi.

Cồn Tiên, Dốc Miếu[2] dựng chòi,

Kiểu Bàn Môn Điếm một thời đã qua.

Trận chiến quân tử miền xa,

Sông Đrăng[3] khúc chiến ca dạo đầu.

Đế Minh buộc nói câu ngầu:

3060."Giôn xơn bè lũ"[4] phải chầu Diêm vương.

Toàn quốc xốc gậy lên đường,

Đạn bom chết chóc, chiến trường khắp nơi.

Muôn năm chỉ có một thời,

Ngô khoai hạt củ rạch ròi bát cơm.

Tình yêu vị ngọt hương thơm,

Không chấp nhận thói bờm xơm ngoại tình.

Hai vua một nước lình xình,

Một chồng hai vợ ắt rình đánh ghen.

Tháp Mười đã nở hoa sen,

3070.Bông súng, điên điển phải men bụi bờ.

Tay bo Bắc thắng, Nam thua,

Nồi da huynh đệ nửa mùa chợ tan.

Trường Sơn mây gió bạt ngàn,

Bước chân nát đá, lửa tàn rừng cây.

Mười nghìn liệt sĩ với tay,

Mười nghìn khát vọng một ngày bình yên[5].

Chiến tranh mở rộng hai miền,

Cháy sang hai nước Lào, Miên[6] láng giềng.

Bầu trời Xiêng Khoảng[7] đảo điên,

3080.Cánh đồng Chum đá xô nghiêng nứt rời.

Ăng Co[8] lửa cháy ngút trời,

Quạ bay táo tác đàn dơi chập chờn.

Đông Tây hai ngả Trường Sơn,

Bể Đông ngầu bọt nỗi buồn chiến tranh.

 

Một chiều mưa ngớt, trời xanh,

Có người nước Phạn đến thành Thăng Long.

Đế Minh đón tiếp trải lòng,

Ngũ Hành[9] Bát quái một vòng ngả ra.

Nước Nam vào thế gân gà[10],

3090.Khó nhai, khó nuốt liệu mà giằng co.

Thuyết âm mưu chúng bỏ lò,

Cá quả chín cháy chơi trò nướng dân.

Đế buồn tính khí thất thần,

Thả câu ao cá, cả tuần kém cơm,

Bánh mì khoai nướng trà thơm,

Treo ảnh nguyên soái gờm gờm nhìn nhau,

Bản đồ chiến sự xước nhàu,

Thước cà, bút vạch mực mầu đỏ đen[11].

Những đêm Đế vặn nhỏ đèn,

3100.Song Ba[12] toan tính Giời quên mất rồi?



[1] Trận Ấp Bắc là một trận quy mô lớn diễn ra vào giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Hoa Kỳ với kết quả là chiến thắng lớn đầu tiên của quân vũ trang Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (phía Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa gọi là Việt Cộng) đối với quân chính quy của Quân lực Việt Nam Cộng hòa được cố vấn Mỹ chỉ huy. Trận này diễn ra vào ngày 2 -1- 1963, gần Ấp Bắc thuộc tỉnh Mỹ Tho lúc bấy giờ (ngày nay là tỉnh Tiền Giang), cách Sài Gòn 65 km về phía tây nam.

[2] Cồn Tiên, xã Gio Sơn, Gio Linh, Quảng Trị, Việt Nam. Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, nơi đây có một căn cứ thủy quân lục chiến Hoa Kỳ nằm gần khu phi quân sự khoảng 3 km so với Bắc Việt Nam, từng diễn ra trận đánh khốc liệt từ tháng 2 -1967 đến tháng 2 -1968

Dốc Miếu thuộc xã Gio Phong, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị, cách cầu Hiền Lương khoảng 7km về phía Nam. Từ năm 1947, căn cứ Dốc Miếu được thực dân Pháp thành lập; sau năm 1954, Mỹ đã đầu tư 800 triệu USD xây dựng căn cứ quân sự quan trọng về pháo binh, dựng hàng rào điện tử Macnama bao gồm 12 lớp kẽm gai, mỗi lớp cao khoảng 3m, xen giữa những hàng rào cài các loại mìn tự động và hệ thống bãi mìn dày đặc hàng trăm mét.

[3] Trận Ia Đrăng (địa điểm nay là huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai), là một trong những trận lớn đầu tiên giữa liên quân Việt Nam Cộng hòa-Quân đội Hoa Kỳ và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Trận đánh là một phần trong Chiến dịch Plei Me (từ ngày 19 -10 đến ngày 26 -11 -1965) do Bộ Tư lệnh Quân đoàn II Việt Nam Cộng hòa thực hiện để đáp trả lại Chiến dịch Plâyme của Bộ Tư lệnh Mặt Trận B3 quân Giải Phóng (từ ngày 19 đến 26 tháng 10 năm 1965).

[4] “Giônxơn và bè lũ phải biết rằng: chúng có thể đưa 50 vạn quân, 1 triệu quân hoặc nhiều hơn nữa để đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam. Chúng có thể dùng hàng nghìn máy bay, tǎng cường đánh phá miền Bắc. Nhưng chúng quyết không thể lay chuyển được chí khí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng. Chúng càng hung hǎng thì tội của chúng càng thêm nặng. Chiến tranh có thể kéo dài 5 nǎm, 10 nǎm, 20 nǎm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn?” Lời kêu gọi toàn quốc chống Mỹ của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam truyền đi sáng ngày 17-7-1966.

Lyndon Baines Johnson (Giônxơn) (1908 - 1973) là Tổng thống Hoa Kỳ thứ 36, tại vị trong giai đoạn 1963-1969. Trước đó, ông đảm nhiệm chức vụ Phó Tổng thống Hoa Kỳ thứ 37 trong giai đoạn 1961-1963. Ông là một trong bốn người duy nhất đắc cử bốn chức vụ liên bang: hạ nghị sĩ, thượng nghị sĩ, phó tổng thống, và tổng thống.

[5] Nghĩa trang liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn ở Quảng Trị, nơi 10.000 liệt sĩ yên nghỉ. Nguồn cảm hứng của Đại tá Nguyễn Hữu Quý là cây bút chuyên nghiệp của quân đội viết bài thơ Khát vọng Trường Sơn”.

[6] Campuchia, tên chính thức: Vương quốc Campuchia, còn gọi là Cao Miên hay Cam Bốt  là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương. Campuchia giáp với vịnh Thái Lan, giáp Thái Lan ở phía tây bắc, Lào ở phía đông bắc và Việt Nam ở phía đông. Năm 1968 Quốc vương Norodom Sihanouk (1922 - 2012) phản đối tất cả các vụ Mỹ đánh bom trên lãnh thổ Campuchia với bất kỳ lý do gì.

[7] Xiangkhouang, tiếng Lào nghĩa là "Thành phố phía chân trời" hiện nay thuộc tỉnh Phonsavan của nước Lào. Nơi đây có Cánh đồng Chum, gồm hàng ngàn chum đá có niên đại 1500 - 2000 năm, nằm rải rác dọc theo thung lũng và đồng bằng trung tâm thuộc Cao nguyên Xiengkhuang. Hầu hết chúng nằm thành từng cụm với số lượng từ một cho đến vài trăm cái chum.

[8] Angkor là một tên thường gọi của một khu vực tại Campuchia đã từng là kinh đô của Đế quốc Khmer  đã phát triển rực rỡ vào khoảng thế kỷ 9 đến thế kỷ 15. Từ "Angkor" xuất phát từ tiếng Phạn nagara và có nghĩa là "thành phố". Chính xác hơn, thời kỳ Angkor có thể được định nghĩa là thời kỳ từ năm 802, khi vị vua Hindu Jayavarman II của người Khmer tự xưng "vua thiên hạ" và "thiên tử" của Campuchia, cho đến năm 1431 khi người Thái chiếm được kinh đô của Khmer khiến cho dân cư ở đây di cư về phía nam đến khu vực PhnomPenh.

[9] Theo triết học cổ Trung Hoa, tất cả vạn vật đều phát sinh từ 5 nguyên tố cơ bản và luôn trải qua 5 trạng thái là: Hỏa Thủy Mộc Kim Thổ. Năm trạng thái này được gọi là Ngũ hành không phải là vật chất như cách hiểu đơn giản theo nghĩa đen trong tên gọi của chúng mà đúng hơn là cách quy ước của người Trung Hoa cổ đại để xem xét mối tương tác và quan hệ của vạn vật trong mối tương quan hài hòa, thống nhất. Bát quái là 8 quẻ  được sử dụng trong vũ trụ học Đạo giáo như là đại diện cho các yếu tố cơ bản của vũ trụ, được xem như là một chuỗi 8 khái niệm có liên quan với nhau. Mỗi quẻ gồm 3 hàng, mỗi hàng là nét rời (hào âm) hoặc nét liền (hào dương), tương ứng đại diện cho âm hoặc dương. Tám quẻ gồm : Càn là Trời, Chấn-Sấm, Khảm- Nước, Cấn -Núi, Khôn-Đất,Tốn-Gió, Ly-Hỏa, Đoài là Đầm, kết hợp hàng và cột hình thành 64 quẻ. Bát quái có liên quan đến triết học thái cực và ngũ hành và cả ba đều của Kinh Dịch. Bát quái được ứng dụng trong thiên văn học, chiêm tinh học, địa lý, phong thủy, giải phẫu học, gia đình, và những lĩnh vực khác.

[10] Dương Tu (175 - 219) là mưu sĩ của Tào Ngụy, giải thích cho tướng Hạ Hầu Đôn rằng khẩu lệnh "kê lặc - gân gà" nói lên tâm trạng của Tào Tháo, vừa muốn rút quân, vừa không muốn bỏ như gân gà, ăn thì không có thịt, bỏ đi thì thấy tiếc. Quả nhiên, Tào Tháo ra lệnh hồi kinh. Việc Dương Tu đoán được ý đến tai Tào Tháo, khiến Tào Tháo rất tức giận và muốn tìm cơ hội giết Dương Tu.

[11] Tại Nhà sàn nơi Hồ Chí Minh ở treo bản đồ chiến sự và ảnh nguyễn soái Liên Xô Stalin.

[12] Hồ Chí Minh và Lê Duẩn đều có tên gọi anh Ba, trong quá trình hoạt động cách mạng.