Thứ Năm, 3 tháng 6, 2021

Trường ca Hồ Chí Minh. Phần II Bôn ba ( 1501 -1800)

 Trường ca Hồ Chí Minh. Phần II Bôn ba ( 1501 -1800)

++++++

1501.Học viên nước Phạn cũng qua

Học cách bảo vệ nhà chùa bằng dân

Hội Tam điểm, tay lần lần

Bí mật chi viện cho quân Việt Tầu

Sự đời nào biết gì đâu

Âm mưu học thuyết đứng đầu thế gian

Hít le cùng với Nhật hoàng

Từng lên Tây Tạng vào hang thỉnh thầy

Nhưng vì cái cách xuống tay

1510.Bạo tàn quá mức ai bày cho khôn

Hầu chủ nhiệm muốn rõ hơn

Mời Hải Thần đến chơi đờn so dây

Tiệc tùng xôm tụ đã bầy

Quan quân nho sĩ vui vầy một chương

Gái xinh y vũ phấn hương

Mao đài chén chú kính nhường đại ca

Vỗ tay, Hầu gọi chân gà

Sở trường lý số xem đà Đồng minh

Hải Thần tung vế đối kinh

1520."Hầu, Hồ" xoắn chữ rất tinh tế đời[1]

Hồ ca nhấp ngụm nước sôi

Thả ra vế đáp "nhĩ thời, ngã công"

Tình Hồ với Tưởng mặn nồng

Tuyết rơi Cụ vẫn ra sông tắm trần

Tiêu Văn cảm kích muôn phần

Ngỡ ngàng người Việt nếp dân nước Tàu?

Không biết tiền bạc ở đâu?

Hồ ca quà cáp nhiều đầu thiếu nhi

Phong bao hơn cả lì xì

1530.Cho trẻ mua áo quần đi đến trường

Xưa nay tình thương mến thương

Hoa quân nhập Việt chúng thường nhẹ tay

Giải giáp, quân Nhật về ngay

Đổi chác với Pháp,Tưởng quay về nhà

Vài người biết rõ Hồ ca

Những năm Lưỡng Quảng đã là vĩ nhân?

Trả lời báo chí liên quân:

Tôi là cộng sản vì dân nước mình

Xin thề một nhát đóng đinh:

1540.Năm mươi năm nữa tình hình vẫn yên

Cộng sản chưa thể dựng lên

Kiểu Nga xô viết ở trên quê nhà

Khán phòng họp báo cười khà,...

Nữu ước Thời báo: Đây là Đồng minh!

Hồ ca cảm nhận rất tinh

Chơi với Mỹ quốc nước mình khá hay

Phi trường dã chiến có ngay

Sĩ quan nước Mỹ vội bay đến Tầu

Mật đàm sau đó không lâu

1550.Không vận cấp tập đầu cầu Vân Nam

Dàn xếp các đội võ trang

Xem ngày cát lợi rẽ sang đất nhà

Vượt Tây Côn Lĩnh nhìn xa

Gió trời êm ả Quảng Ba dẫn đầu

Văn Cáp lặng lẽ bước sau

Giấy thông hành của Trưởng châu ký rồi

Trước sau vẫn có bóng người

Hoa quân bí mật cắm nơi Cụ dừng

Mùa này còn hoa chuối rừng

1560.Săn con lợn lửng vui mừng chia tay

Tiệc tùng vừa độ mê say

Trời Nam xanh thắm hẹn ngày gặp nhau

Đường xưa mây trắng phau phau

Chiến khu đất bạn hai đầu đế vương

Gia Long xưa rất can trường

Dạt qua Băng Cốc[2] tìm đường về Nam

Hà Tiên rừng mặn đước tràm

Chim trời cá sấu mỏ hàm cắn nhau

Gai dẻ Trùng Khánh[3] nhọn đầu

1570.Cụ Vương[4] rẽ đất chẳng sầu muộn chi

Miền Tây ở xứ Trung Kỳ

Trường Sơn chỉ để quân đi bắn đòm

Quà Mỹ tặng một ống nhòm

Cụ Vương giương hướng vào chòm bản xa

Một dàn du kích reo ca

Súng dài, cung nỏ đón Cha già về

Mặt mừng tay bắt thoả thuê

Bác mong các chú giỏi nghề chiến binh

Trước hết phải khỏe thân hình

1580.Thú rừng còn đó phải rình bắt săn

Rượu ngô, cơm lam phải ăn

Lấy sức chiến đấu với thằng giặc to

Căm bây xen tiếng rô rô

Du kích quân khoái già Hồ từ đây

Bộ tướng hội họp vài ngày

Biên cương phía Bắc dựng ngay hàng rào

Trấn áp bọn phỉ bên Tào

Chúng giả thương lái tiến vào nước ta

Đúng là trình độ đại ca

1590.Chống phỉ Nam tiến toàn ma nước Tầu

Rừng xanh núi thẳm xiên xâu

Phỉ và buôn lậu đánh nhau hàng ngày

Tưởng Mao thoáng chút a cay

Xâm nhập hàng xóm kiểu này từ xưa

Nguyễn Bình[5] đệ tứ chiến khu

Dùng toàn thổ phỉ cò cưa biên thuỳ

Cụ Vương cử ngay người đi

Hứa phong độc nhãn ngang thừa tướng quân

Tư tưởng chiến tranh nhân dân

1600.Vũ trang hậu thuận cho cần lao lên

Cách này mới thật vững bền

Kiểu dàn trận lớn hai bên mình tèo

Tựa như thân phận nhà nghèo

Khéo ăn qua bữa khéo chèo qua sông

Ngày mẹ vận áo nâu sồng

Canh cửi chợ tạm kiếm đồng bạc tiêu

Cha làm quan rượu quá nhiều

Bạn hữu qua lại, tiêu điều bỏ đi

Ba mươi năm lẻ ngựa phi

1610.Năm châu tứ bể Cụ ghi khắc lòng

Nghiệp lớn rất dễ đi tong

Chỉ vì quá chén bốc đồng lạc trôi

Tỷ phú Nhật Vượng[6] cập thời

Là nhờ năm tháng bên trời Nga Xô

Năm Thân tháng tận xô bồ

Khỉ rừng chí choé bên bờ suối reo

Báo năm Ất Dậu[7] hiểm nghèo

Cùng đường bất biến tự tèo quốc gia

Tắc thông đang hé lộ ra

1620.Quân Nhật bị đói dân ta khốn cùng

Nguyên Bình[8] heo hút cánh rừng

Vén rèm hang Cốc Cụ trưng đồ nghề

Chú Văn vội vã quay về

Nhận ngay Thánh chỉ hội thề nghĩa quân

Cụ giao cờ mũ áo quần

Vỏ bao súng ngắn vặn căn đôi lời:

Tuyên truyền giải phóng cuộc đời

Dụ dân gậy gộc gặp thời vùng lên

Nghĩa quân sẽ có bạc tiền

1630.Mua vũ khí ở đường biên đem về

Mỗi người phải thấm lời thề

Tận trung với nước nhận bề tôi dân

Đánh giặc phải nắm chắc phần

Thua dừng, thắng xốc thảo quần tới lui

Bài đánh du kích luyện trui

Sách chiến rất mỏng, chết vùi nghiêm trang

Trai tráng ở các bản làng

Đầu quân nườm nượp dài hàng nghĩa quân

Có chú chân đất ở trần

1640.Chung nhau tấm áo chăn phần cỏ thơm

Sắn bùi thịt nướng thay cơm

Chuẩn bị đánh chiếm Động Ngườm Ngao[9] kia

Thổ phỉ giấu của để chia

Toàn hàng Tàu Pháp súng chìa nòng đen

Nà Ngần, Phay Khắt[10] sáng đèn

Lính Ta lính Pháp gầy đen nhúm thằng

Giáp chĩa Pạc hoọc[11] pằng pằng

Nghĩa quân ném đá dao quăng chém vào

Tây Ta tháo chạy ào ào

1650.Chúng chỉ mong đợi cớ vào Phủ quan

Vạn sự thắng lợi hoàn toàn

Chia nhau chiến lợi liên hoan tưng bừng

Nhật lùn chiếm cứ đồng bằng

Nam Triều phong kiến thấy căng lắm rồi

Chẻ tre lật mấu như chơi

Bỏ hang về chiếm đất trời Tuyên Quang

Quân Tưởng quyết định đi sang

Giúp Ta kháng Nhật, vũ trang tăng dần

Tân Trào[12] rừng thẳm thưa dân

1660.Hơn đứt Bắc Cạn Chu quân dọn đường

Đã từng đọc vận đế vương

Cụ vào lán nứa xa nương tài mà

Chiến tranh Nhật- Mỹ ở Ta

Sỹ quan binh lính trình gà mờ thôi

Trung úy Sao bị bắn rơi

Trong trận không chiến trên trời biên cương

Chiến công tự đến bất thường

Bất chiến mà thắng đế vương đã từng

Ông Cụ rất đỗi vui mừng

1670.Đón phi công Mỹ trong rừng nguyên sinh[13]

Kế hoạch giao cho Đồng minh

Hổ Bay[14] sướng đến giật mình ký ngay

Giấy tờ đi lại hàng ngày

Côn Minh, Trùng Khánh vung tay chuyện trò

Pát ty[15] bên Mỹ hỏi dò

Quân của cụ Ké bây giờ ở đâu?

Cụ rằng: ở chỗ nông sâu

Toàn dân tự vệ  hóng chầu Đồng minh

Hành lang vận động lý tình

1680.Pháp, Tưởng, Mỹ quốc, Cụ khinh Mao rồi

Cà phê tiệc nhẹ cùng mời

Các hàng tướng tá bên trời Vân Nam

Chặn ý đồ Tưởng tràn sang

Nhận đồ tiếp vận nhiều hàng hóa hay

Phía Mỹ thực dụng đưa ngay

Mỹ kim một xấp bạc dầy xanh lơ

Ông Cụ cảm ơn xin chờ !

Đội đặc nhiệm đến đúng giờ hay hơn

Cơ hội hợp tác vuông tròn

1690.Tiếc thay bên Mỹ chờn vờn ngó nghiêng

Trở về Khu chiến Cụ nghiền

Dụng binh Tôn Tử sách biên rõ ràng

Hỏa công lừa địch dọc ngang

Nghi binh bằng trống rộn ràng khắp nơi

Soạn ra rất nhiều tờ rơi

Đưa về xuôi dọa dụ người địch ta

Nhóm biệt kích Mỹ đã qua

Lũng Cò dù trắng ngỡ ma nhà Trời

Anh Văn thấp bé nhẹ còi

1700.Tô Mát[16] đội trưởng cứ đòi Cụ Vương

Hai bên tổ chức thao trường

Thực binh kiểu Mỹ nhiều chương luyện rèn

Lũng Cò lấp lánh ánh đèn

Cụ Vương Tô Mát ngồi bên rượu trà

Chuyện nhiều sơ ý lộ ra

Đội Con Nai biết ông già này hay

Từng đến Mỹ quốc nhiều ngày

Xem thần tượng nữ phơi bày Tự Do

Tô Mát vẫn thấy lo lo

1710.Chất cộng sản dễ bóp cò vào nhau.

Nà Lừa lán ở rừng sâu

Lội qua con suối ngập đầu gối sang

Nguyên tắc bí mật an toàn

Đưa cơm như thể cho chàng chăn trâu

Trung đội gác ở hai đầu

Mò cua bắt cá nước ngầu đục trong

Nửa đêm cụ Ké nóng lòng

Lên cơn sốt rét đôi tròng mắt to

Tình hình đất nước cam go

1720.Nhật tàn Tưởng sẽ hét hò kéo sang

Nam Triều theo cách bảo hoàng

Để dân chết đói bỏ làng ra đi

Non sông lại kiếp nô tỳ

Bánh bao Tầu Tưởng chấm xì dầu cay

Còn đâu mái tóc óng dầy

Còn đâu những bát phở đầy sớm hôm

Gối mây chăn mỏng Cụ ôm

Cột tre liếp nứa gió nồm rét run

Anh Văn kịp đến giúp giùm

1730.Cụ rằng thời vận phá cùm xích gông

Hai ngàn cây số Trường Sơn

Dẫu phải phóng hỏa làm luôn lúc này[17]

Phải giành độc lập từ đây

Chính danh dân chủ mới thay đổi đời

Văn tướng kêu ối giời ơi !

Loan cho các đệ gần nơi lán Lừa

Thuốc của thầy cúng, thầy mo

Mũi tiêm của Mỹ Cụ bò dậy nhanh

Một khi nghiệp đế chưa thành

1740.Ma nào dám bắt hãm phanh lúc này

Tân Trào quan tướng đủ đầy

Trèo lên tảng đá một ngày họp xong

Tất cả đồng hướng đồng lòng

Nghĩa quân đã xuống tận Phong Châu rồi

Thái Nguyên, Bờ Đậu có người

Giao liên bị bắn bụng lòi ra thư

Chả biết câu chuyện thực hư

Út Vân gửi đến tâm tư mong chờ[18]

Giữa lúc cả nước đỏ cờ

1750.Tình riêng có thể bất ngờ tàn canh

Thư này bị hủy quá nhanh

Út Vân buồn tủi trở thành ni cô

Kỷ Dậu Bà vẫn nghi ngờ

Anh Ba còn sống Út chờ trăm năm

Anh Văn kê thực đơn ăn

Ba ba đầu suối cá tầm cửa hang

Thảo dược toa thuốc thầy lang

Đầu bếp ngoại hạng tiến dâng Cha già

Từ đó Cụ ít dùng gà

1760.Toàn chén đặc sản vườn nhà thả hoang

Rau rừng ở xứ Tuyên Quang

Mọc trên núi đá rau hoàng đế xưa

Anh em gần lán Nà Lừa

Săn thú hái nấm măng chua ở rừng

Gốc đa bày cỗ tưng bừng

Mái đình Hồng Thái khói lừng lên cao

Tô Mát da dẻ hồng hào

Wis ky đã hết rượu nào cũng ham

Báo cáo gửi về Vân Nam

1770.Khen Việt Minh biết việc làm độc chiêu

Trung đội Con Nai sớm chiều

Tắm tiên bên suối rất yêu đất này

Đồng minh gửi hàng sang ngay

Lựu đạn súng cối mũ giày thuốc men

Tưởng cung cấp lựu đạn đen

Cán dài chém gió bay lên nổ đùng

Nghĩa quân hừng hực oai hùng

Ở trần ôm cọc vượt bùng nhùng gai

Thời loạn thử thách chí trai

1780.Lập công báo quốc chọn bài báo ân

Tầng tầng, lớp lớp nhân dân

Cọc tre vót nhọn dao gằn đá hoa

Trống chiêng tín hiệu loan xa

Vùng lên đánh phá cửa nhà quan Tây

Phìa tạo[19] bị xích hàng dây

Van xin từ bỏ ruộng cầy cho dân

Tự do độc lập đến gần

Khắc làm khắc chén ba quân sướng nhoè

Cần lao từ đó hay khoe

1790.Việt Minh giải phóng chẳng đe nạt gì

Tiến quân về phía hạ du

Nhật hàng, Pháp chạy chiến thù nhẹ tâng

Thành lập đội Giải phóng quân

Đánh đồn phá bốt tiến gần Thủ đô

Hà Nội thời khắc xô bồ

Pháp Nhật, đảng phái phát rồ phát điên

Nhà giầu đúc túi giấu tiền

Cần lao chết đói hốt lên xe bò[20]

Bánh sắt khô khốc bờ Hồ

1800.Chợ thành âm phủ nấm mồ cần lao



[1] Nguyễn Hải Thần ra vế “Hầu Chí Minh, Hồ Chí Minh, lưỡng vị đồng chí, chí giai minh. Hồ Chí Minh đối “ Nhĩ cách mệnh, Ngã cách mệnh, đại gia cách mệnh, mệnh tất cách”. (Dịch: Hầu Chí Minh, Hồ Chí Minh, hai vị đồng chí, chí đều sáng/ Anh cách mạng, tôi cách mạng, mọi người cách mạng, mạng phải cách ).

 [2] Thủ đô Vương quốc Thái Lan, còn gọi là Vọng Các

[3] Huyện thuộc tỉnh Cao Bằng

[4] Bút danh của Hồ Chí Minh từ năm 1925

[5] Nguyễn Bình (1908 - 1951) là Trung tướng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, lãnh đạo quân dân miền Nam Việt Nam kháng chiến chống Pháp.Ông là đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng, ly khai năm 1936, tháng 6-1945 ông lập chiến khu Đông Triều. Ông cũng là người đầu tiên trong quân đội được nhận ông Huân chương Quân công hạng nhất.

[6] Phạm Nhật Vượng (sinh ngày 5 tháng 8 năm 1968 tại Hà Nội) là một doanh nhân và tỷ phú người Việt Nam. Năm 2020, ông là người giàu nhất Việt Nam và giàu thứ 286 trên thế giới với 5.6 tỷ USD.

[7] Năm 1945. Hồ Chí Minh từng tiên đoán năm Cách mạng Việt Nam thành công. Thơ chúc Tết ông viết ở Côn Minh, Trung Quốc Vũ trang đón lấy thời cơ/ Đứng lên giết giặc trao cờ tự do/ Rồi trăm họ ấm no sung sướng/ Trên thế giới được hưởng bình quyền/ Nghìn thu danh vọng Rồng Tiên” 

[8], Huyện Nguyên Bình, phía Nam tỉnh Cao Bằng, có Khu di tích lịch sử rừng Trần Hưng Đạo: thuộc xã Tam Kim, nơi thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân là tên của đội quân chủ lực của Mặt trận Việt Minh từ tháng 12 năm 1944 đến tháng 5 năm 1945. Đây là tổ chức quân sự được xem là tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam.

[9] Động Ngao hay Ngườm Ngao, đôi khi gọi là Động Ngườm Ngao, là một hang động nằm ở bản Gun, xã Đàm Thuỷ, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, Việt Nam. Động này toạ lạc trong lòng một quả núi, cách thác Bản Giốc 5 km.

[10] Trận Phai Khắt và Nà Ngần ngày 25 và 26 tháng 12 năm 1944 là 2 trận đánh đầu tiên của đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiêu diệt 2 đồn nhỏ do đích thân Võ Nguyên Giáp chỉ huy.

[11] Loại súng ngắn (pháo hộp, hay thủ thương)

[12] Tân Trào là một xã thuộc huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, nơi Đại hội Quốc dân họp tại Đình Tân Trào ngày 16/8/1945 chuẩn bịTổng khởi nghĩa và bầu Ủy ban dân tộc giải phóng.

[13] Tháng 10/1944, có một Trung uý phi công Mỹ tên là William Shaw trong khi làm nhiệm vụ lái máy bay trên vùng trời biên giới Việt Nam - Trung Quốc đã bị quân Nhật bắn rơi xuống xã Đề Thám (huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng), được Việt Minh cứu, Hồ Chí Minh dẫn viên phi công trao cho quân Mỹ ở Côn Minh.

[14] Claire Lee Chennault (1893-1958), ông là trung tướng không lực Hoa Kỳ, Chỉ huy Không đoàn 14 - còn được biết đến với cái tên nổi tiếng "Mãnh Hổ Bay", là cố vấn cấp cao cho lực lượng không quân Quốc Dân Đảng thời Đệ nhị thế chiến

[15] Archimedes L.A. Patti (1914-1998) là cựu sĩ quan tình báo, người đứng đầu phái bộ tiền trạm OSS đến Hà Nội tháng 8 năm 1945 để thực hiện nhiệm vụ giải cứu tù binh và chuẩn bị cho việc giải giới quân Nhật tại Bắc Đông Dương. Thời gian này, ông có những tiếp xúc với Hồ Chí Minh và chứng kiến ngày lễ Độc lập của Việt Nam. Năm 1980, ông cho xuất bản quyển hồi ký "Tại sao Việt Nam?", ghi chép lại những sự kiện chính trị quan trọng và về vai trò của người Mỹ tại Việt Nam trong giai đoạn này.

[16] Ngày 16 tháng 7 năm 1945, nhóm Con Nai thuộc cơ quan tình báo Mỹ OSS do Thiếu tá Thomas chỉ huy nhảy dù xuống vùng lân cận làng Kim Lung cách Tuyên Quang 20 dặm về phía đông. Nhóm tình báo Con Nai được lực lượng Việt Minh tại Tuyên Quang gồm khoảng 200 người đón tiếp. Trong vòng một tháng, nhóm Con Nai đã huấn luyện cho lực lượng Việt Minh cách sử dụng những vũ khí Mỹ và chiến thuật du kích. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, nhóm Con Nai cùng Việt Minh về Hà Nội và tham dự lễ thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

[17] Tại lán Nà Lừa ông Cụ ốm nặng và nói với ông Võ Nguyễn Giáp “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập

[18] Út Vân ở Sài Gòn gửi thư cho Anh Ba nhưng không tới.(Chi tiết này được nhà văn Sơn Tùng nói chuyện)

[19] Giai cấp thống trị trong xã hội dân tộc Thái thời trước.

[20] Nạn đói năm Ất Dậu là một thảm họa nhân đạo xảy ra tại miền Bắc Việt Nam trong khoảng từ tháng 10 năm 1944 đến tháng 5 năm 1945 làm khoảng từ 400.000 đến 2 triệu người dân chết đói