Trường ca Hồ Chí Minh. Phần II Bôn ba ( 1501 -1800)
++++++
1501.Học viên nước Phạn cũng qua
Học cách bảo vệ nhà chùa bằng dân
Hội Tam điểm, tay lần lần
Bí mật chi viện cho quân Việt Tầu
Sự đời nào biết gì đâu
Âm mưu học thuyết đứng đầu thế
gian
Hít le cùng với Nhật hoàng
Từng lên Tây Tạng vào hang thỉnh
thầy
Nhưng vì cái cách xuống tay
1510.Bạo tàn quá mức ai bày cho khôn
Hầu chủ nhiệm muốn
rõ hơn
Mời Hải Thần đến
chơi đờn so dây
Tiệc tùng xôm tụ
đã bầy
Quan quân nho sĩ vui vầy một chương
Gái xinh y vũ phấn hương
Mao đài chén chú kính nhường đại ca
Vỗ tay, Hầu gọi chân gà
Sở trường lý số xem đà Đồng minh
Hải Thần tung vế đối kinh
1520."Hầu, Hồ" xoắn chữ
rất tinh tế đời[1]
Hồ ca nhấp ngụm nước sôi
Thả ra vế đáp "nhĩ thời, ngã công"
Tình Hồ với Tưởng mặn nồng
Tuyết rơi Cụ vẫn ra sông tắm trần
Tiêu Văn cảm kích muôn phần
Ngỡ ngàng người Việt nếp dân nước Tàu?
Không biết tiền bạc ở đâu?
Hồ ca quà cáp nhiều đầu thiếu nhi
Phong bao hơn cả lì xì
1530.Cho trẻ mua áo quần đi đến
trường
Xưa nay tình thương mến thương
Hoa quân nhập Việt chúng thường nhẹ tay
Giải giáp, quân Nhật về ngay
Đổi chác với Pháp,Tưởng quay về nhà
Vài người biết rõ Hồ ca
Những năm Lưỡng Quảng đã là vĩ nhân?
Trả lời báo chí liên quân:
Tôi là cộng sản vì dân nước mình
Xin thề một nhát đóng đinh:
1540.Năm mươi năm nữa tình hình vẫn
yên
Cộng sản chưa thể dựng lên
Kiểu Nga xô viết ở trên quê nhà
Khán phòng họp báo cười khà,...
Nữu ước Thời báo: Đây là Đồng minh!
Hồ ca cảm nhận rất tinh
Chơi với Mỹ quốc nước mình khá hay
Phi trường dã chiến có ngay
Sĩ quan nước Mỹ vội bay đến Tầu
Mật đàm sau đó không lâu
1550.Không vận cấp tập đầu cầu
Vân Nam
Dàn xếp các đội võ trang
Xem ngày cát lợi rẽ sang đất nhà
Vượt Tây Côn Lĩnh
nhìn xa
Gió trời êm ả Quảng
Ba dẫn đầu
Văn Cáp lặng lẽ
bước sau
Giấy thông hành của
Trưởng châu ký rồi
Trước sau vẫn có
bóng người
Hoa quân bí mật cắm
nơi Cụ dừng
Mùa này còn hoa
chuối rừng
1560.Săn con lợn lửng vui mừng chia tay
Tiệc tùng vừa độ
mê say
Trời Nam xanh thắm
hẹn ngày gặp nhau
Đường xưa mây trắng
phau phau
Chiến khu đất bạn
hai đầu đế vương
Gia Long xưa rất
can trường
Dạt qua Băng Cốc[2] tìm
đường về Nam
Hà Tiên rừng mặn
đước tràm
Chim trời cá sấu
mỏ hàm cắn nhau
Gai dẻ Trùng
Khánh[3] nhọn
đầu
1570.Cụ Vương[4]
rẽ đất chẳng sầu muộn chi
Miền Tây ở xứ
Trung Kỳ
Trường Sơn chỉ để
quân đi bắn đòm
Quà Mỹ tặng một ống
nhòm
Cụ Vương giương
hướng vào chòm bản xa
Một dàn du kích
reo ca
Súng dài, cung nỏ
đón Cha già về
Mặt mừng tay bắt
thoả thuê
Bác mong các chú
giỏi nghề chiến binh
Trước hết phải khỏe
thân hình
1580.Thú rừng còn đó phải rình bắt săn
Rượu ngô, cơm lam
phải ăn
Lấy sức chiến đấu
với thằng giặc to
Căm bây xen tiếng
rô rô
Du kích quân
khoái già Hồ từ đây
Bộ tướng hội họp
vài ngày
Biên cương phía
Bắc dựng ngay hàng rào
Trấn áp bọn phỉ
bên Tào
Chúng giả thương
lái tiến vào nước ta
Đúng là trình độ
đại ca
1590.Chống phỉ Nam tiến toàn ma nước Tầu
Rừng xanh núi thẳm
xiên xâu
Phỉ và buôn lậu
đánh nhau hàng ngày
Tưởng Mao thoáng
chút a cay
Xâm nhập hàng xóm
kiểu này từ xưa
Nguyễn Bình[5] đệ tứ
chiến khu
Dùng toàn thổ phỉ
cò cưa biên thuỳ
Cụ Vương cử ngay
người đi
Hứa phong độc
nhãn ngang thừa tướng quân
Tư tưởng chiến
tranh nhân dân
1600.Vũ trang hậu thuận cho cần lao lên
Cách này mới thật
vững bền
Kiểu dàn trận lớn
hai bên mình tèo
Tựa như thân phận
nhà nghèo
Khéo ăn qua bữa
khéo chèo qua sông
Ngày mẹ vận áo
nâu sồng
Canh cửi chợ tạm
kiếm đồng bạc tiêu
Cha làm quan rượu
quá nhiều
Bạn hữu qua lại,
tiêu điều bỏ đi
Ba mươi năm lẻ ngựa
phi
1610.Năm châu tứ bể Cụ ghi khắc lòng
Nghiệp lớn rất dễ
đi tong
Chỉ vì quá chén bốc
đồng lạc trôi
Tỷ phú Nhật Vượng[6] cập
thời
Là nhờ năm tháng
bên trời Nga Xô
Năm Thân tháng tận
xô bồ
Khỉ rừng chí choé bên bờ suối reo
Báo năm Ất Dậu[7] hiểm nghèo
Cùng đường bất biến tự tèo quốc gia
Tắc thông đang hé lộ ra
1620.Quân Nhật bị đói dân ta khốn
cùng
Nguyên Bình[8] heo hút cánh rừng
Vén rèm hang Cốc Cụ trưng đồ nghề
Chú Văn vội vã quay về
Nhận ngay Thánh chỉ hội thề nghĩa quân
Cụ giao cờ mũ áo quần
Vỏ bao súng ngắn vặn căn đôi lời:
Tuyên truyền giải phóng cuộc đời
Dụ dân gậy gộc gặp thời vùng lên
Nghĩa quân sẽ có bạc tiền
1630.Mua vũ khí ở đường biên đem
về
Mỗi người phải thấm lời thề
Tận trung với nước nhận bề tôi dân
Đánh giặc phải nắm chắc phần
Thua dừng, thắng xốc thảo quần tới lui
Bài đánh du kích luyện trui
Sách chiến rất mỏng, chết vùi nghiêm trang
Trai tráng ở các bản làng
Đầu quân nườm nượp dài hàng nghĩa quân
Có chú chân đất ở trần
1640.Chung nhau tấm áo chăn phần
cỏ thơm
Sắn bùi thịt nướng thay cơm
Chuẩn bị đánh chiếm Động Ngườm Ngao[9] kia
Thổ phỉ giấu của để chia
Toàn hàng Tàu Pháp súng chìa nòng đen
Nà Ngần, Phay Khắt[10] sáng đèn
Lính Ta lính Pháp gầy đen nhúm thằng
Giáp chĩa Pạc hoọc[11] pằng pằng
Nghĩa quân ném đá dao quăng chém vào
Tây Ta tháo chạy ào ào
1650.Chúng chỉ mong đợi cớ vào Phủ
quan
Vạn sự thắng lợi hoàn toàn
Chia nhau chiến lợi liên hoan tưng bừng
Nhật lùn chiếm cứ đồng bằng
Nam Triều phong kiến thấy căng lắm rồi
Chẻ tre lật mấu như chơi
Bỏ hang về chiếm đất trời Tuyên Quang
Quân Tưởng quyết định đi sang
Giúp Ta kháng Nhật, vũ trang tăng dần
Tân Trào[12] rừng thẳm thưa dân
1660.Hơn đứt Bắc Cạn Chu quân dọn
đường
Đã từng đọc vận đế vương
Cụ vào lán nứa xa nương tài mà
Chiến tranh Nhật- Mỹ ở Ta
Sỹ quan binh lính trình gà mờ thôi
Trung úy Sao bị bắn rơi
Trong trận không chiến trên trời
biên cương
Chiến công tự đến bất thường
Bất chiến mà thắng đế vương đã từng
Ông Cụ rất đỗi vui mừng
1670.Đón phi công Mỹ trong rừng nguyên sinh[13]
Kế hoạch giao cho Đồng minh
Hổ Bay[14] sướng đến giật
mình ký ngay
Giấy tờ đi lại hàng ngày
Côn Minh, Trùng Khánh vung tay
chuyện trò
Pát ty[15] bên Mỹ hỏi
dò
Quân của cụ Ké bây giờ ở đâu?
Cụ rằng: ở chỗ nông sâu
Toàn dân tự vệ hóng chầu Đồng minh
Hành lang vận động lý tình
1680.Pháp, Tưởng, Mỹ quốc, Cụ khinh Mao rồi
Cà phê tiệc nhẹ cùng mời
Các hàng tướng tá bên trời Vân Nam
Chặn ý đồ Tưởng tràn sang
Nhận đồ tiếp vận nhiều hàng hóa
hay
Phía Mỹ thực dụng đưa ngay
Mỹ kim một xấp bạc dầy xanh lơ
Ông Cụ cảm ơn xin chờ !
Đội đặc nhiệm đến đúng giờ hay hơn
Cơ hội hợp tác vuông tròn
1690.Tiếc thay bên Mỹ chờn vờn ngó nghiêng
Trở về Khu chiến Cụ nghiền
Dụng binh Tôn Tử sách biên rõ ràng
Hỏa công lừa địch dọc ngang
Nghi binh bằng trống rộn ràng khắp
nơi
Soạn ra rất nhiều tờ rơi
Đưa về xuôi dọa dụ người địch ta
Nhóm biệt kích Mỹ đã qua
Lũng Cò dù trắng ngỡ ma nhà Trời
Anh Văn thấp bé nhẹ còi
1700.Tô Mát[16]
đội trưởng cứ đòi Cụ Vương
Hai bên tổ chức thao trường
Thực binh kiểu Mỹ nhiều chương luyện
rèn
Lũng Cò lấp lánh ánh đèn
Cụ Vương Tô Mát ngồi bên rượu trà
Chuyện nhiều sơ ý lộ ra
Đội Con Nai biết ông già này hay
Từng đến Mỹ quốc nhiều ngày
Xem thần tượng nữ phơi bày Tự Do
Tô Mát vẫn thấy lo lo
1710.Chất cộng sản dễ bóp cò vào nhau.
Nà Lừa lán ở rừng sâu
Lội qua con suối ngập đầu gối sang
Nguyên tắc bí mật an toàn
Đưa cơm như thể cho chàng chăn
trâu
Trung đội gác ở hai đầu
Mò cua bắt cá nước ngầu đục trong
Nửa đêm cụ Ké nóng lòng
Lên cơn sốt rét đôi tròng mắt to
Tình hình đất nước cam go
1720.Nhật tàn Tưởng sẽ hét hò kéo sang
Nam Triều theo cách bảo hoàng
Để dân chết đói bỏ làng ra đi
Non sông lại kiếp nô tỳ
Bánh bao Tầu Tưởng chấm xì dầu cay
Còn đâu mái tóc óng dầy
Còn đâu những bát phở đầy sớm hôm
Gối mây chăn mỏng Cụ ôm
Cột tre liếp nứa gió nồm rét run
Anh Văn kịp đến giúp giùm
1730.Cụ rằng thời vận phá cùm xích gông
Hai ngàn cây số Trường Sơn
Dẫu phải phóng hỏa làm luôn lúc
này[17]
Phải giành độc lập từ đây
Chính danh dân chủ mới thay đổi đời
Văn tướng kêu ối giời ơi !
Loan cho các đệ gần nơi lán Lừa
Thuốc của thầy cúng, thầy mo
Mũi tiêm của Mỹ Cụ bò dậy nhanh
Một khi nghiệp đế chưa thành
1740.Ma nào dám bắt hãm phanh lúc này
Tân Trào quan tướng đủ đầy
Trèo lên tảng đá một ngày họp xong
Tất cả đồng hướng đồng lòng
Nghĩa quân đã xuống tận Phong Châu
rồi
Thái Nguyên, Bờ Đậu có người
Giao liên bị bắn bụng lòi ra thư
Chả biết câu chuyện thực hư
Út Vân gửi đến tâm tư mong chờ[18]
Giữa lúc cả nước đỏ cờ
1750.Tình riêng có thể bất ngờ tàn canh
Thư này bị hủy quá nhanh
Út Vân buồn tủi trở thành ni cô
Kỷ Dậu Bà vẫn nghi ngờ
Anh Ba còn sống Út chờ trăm năm
Anh Văn kê thực
đơn ăn
Ba ba đầu suối cá
tầm cửa hang
Thảo dược toa thuốc
thầy lang
Đầu bếp ngoại hạng
tiến dâng Cha già
Từ đó Cụ ít dùng
gà
1760.Toàn chén đặc sản vườn nhà thả hoang
Rau rừng ở xứ
Tuyên Quang
Mọc trên núi đá
rau hoàng đế xưa
Anh em gần lán Nà
Lừa
Săn thú hái nấm
măng chua ở rừng
Gốc đa bày cỗ
tưng bừng
Mái đình Hồng
Thái khói lừng lên cao
Tô Mát da dẻ hồng
hào
Wis ky đã hết rượu
nào cũng ham
Báo cáo gửi về
Vân Nam
1770.Khen Việt Minh biết việc làm độc chiêu
Trung đội Con Nai
sớm chiều
Tắm tiên bên suối
rất yêu đất này
Đồng minh gửi
hàng sang ngay
Lựu đạn súng cối
mũ giày thuốc men
Tưởng cung cấp lựu
đạn đen
Cán dài chém gió
bay lên nổ đùng
Nghĩa quân hừng hực
oai hùng
Ở trần ôm cọc vượt
bùng nhùng gai
Thời loạn thử
thách chí trai
1780.Lập công báo quốc chọn bài báo ân
Tầng tầng, lớp lớp
nhân dân
Cọc tre vót nhọn
dao gằn đá hoa
Trống chiêng tín
hiệu loan xa
Vùng lên đánh phá
cửa nhà quan Tây
Phìa tạo[19] bị
xích hàng dây
Van xin từ bỏ ruộng
cầy cho dân
Tự do độc lập đến
gần
Khắc làm khắc
chén ba quân sướng nhoè
Cần lao từ đó hay
khoe
1790.Việt Minh giải phóng chẳng đe nạt gì
Tiến quân về phía
hạ du
Nhật hàng, Pháp
chạy chiến thù nhẹ tâng
Thành lập đội Giải
phóng quân
Đánh đồn phá bốt
tiến gần Thủ đô
Hà Nội thời khắc
xô bồ
Pháp Nhật, đảng
phái phát rồ phát điên
Nhà giầu đúc túi
giấu tiền
Cần lao chết đói
hốt lên xe bò[20]
Bánh sắt khô khốc
bờ Hồ
1800.Chợ thành âm phủ nấm mồ cần lao
[1] Nguyễn Hải Thần ra vế “Hầu Chí Minh, Hồ Chí Minh, lưỡng vị đồng chí, chí giai
minh”. Hồ Chí Minh đối “ Nhĩ cách mệnh, Ngã cách mệnh, đại gia cách mệnh, mệnh
tất cách”. (Dịch: Hầu Chí Minh, Hồ Chí Minh, hai vị đồng chí, chí
đều sáng/ Anh cách mạng, tôi cách mạng, mọi người cách mạng, mạng phải cách ).
[3] Huyện thuộc tỉnh Cao Bằng
[4] Bút danh của Hồ Chí Minh từ năm 1925
[5] Nguyễn Bình (1908 - 1951)
là Trung tướng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, lãnh đạo
quân dân miền Nam Việt Nam kháng chiến chống Pháp.Ông là đảng viên
Việt Nam Quốc dân đảng, ly khai năm 1936, tháng 6-1945 ông lập chiến khu Đông
Triều. Ông cũng là người đầu tiên trong quân đội được
nhận ông Huân chương Quân công hạng nhất.
[6] Phạm Nhật
Vượng (sinh ngày 5 tháng
8 năm 1968 tại Hà Nội) là một doanh
nhân và tỷ phú người Việt Nam. Năm 2020, ông là người giàu
nhất Việt Nam và giàu thứ 286 trên thế giới với 5.6 tỷ USD.
[7] Năm 1945. Hồ Chí Minh từng tiên đoán năm Cách mạng Việt Nam thành
công. Thơ chúc Tết ông viết ở Côn Minh, Trung Quốc” Vũ trang
đón lấy thời cơ/ Đứng lên giết giặc trao cờ tự do/ Rồi trăm họ ấm no sung sướng/
Trên thế giới được hưởng bình quyền/ Nghìn thu danh vọng Rồng Tiên”
[8], Huyện Nguyên Bình, phía Nam tỉnh Cao Bằng,
có Khu di tích lịch sử rừng Trần Hưng Đạo: thuộc xã Tam Kim, nơi thành lập
đội Việt Nam Tuyên
truyền Giải phóng quân là tên của đội
quân chủ lực của Mặt trận Việt Minh từ tháng 12 năm 1944 đến tháng 5
năm 1945. Đây là tổ chức quân sự được xem là tiền thân của Quân đội nhân
dân Việt Nam.
[9] Động Ngao hay Ngườm Ngao, đôi khi gọi là Động Ngườm Ngao, là một hang động nằm
ở bản Gun, xã Đàm Thuỷ, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, Việt
Nam. Động này toạ lạc trong lòng một quả núi, cách thác Bản Giốc 5 km.
[10] Trận Phai Khắt và Nà Ngần ngày 25 và 26
tháng 12 năm 1944 là 2 trận đánh đầu tiên của đội Việt Nam
Tuyên truyền Giải phóng quân, tiêu diệt 2 đồn nhỏ do đích thân Võ Nguyên
Giáp chỉ huy.
[11] Loại súng ngắn (pháo hộp, hay thủ thương)
[12] Tân Trào là một xã thuộc huyện Sơn
Dương, tỉnh Tuyên Quang, nơi Đại hội Quốc dân họp tại Đình Tân Trào
ngày 16/8/1945 chuẩn bịTổng khởi nghĩa và bầu Ủy ban dân tộc giải phóng.
[13] Tháng
10/1944, có một Trung uý phi công Mỹ tên là William Shaw trong khi làm nhiệm vụ
lái máy bay trên vùng trời biên giới Việt Nam - Trung Quốc đã bị quân Nhật bắn
rơi xuống xã Đề Thám (huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng), được Việt Minh cứu, Hồ Chí
Minh dẫn viên phi công trao cho quân Mỹ ở Côn Minh.
[14] Claire Lee
Chennault (1893-1958), ông là trung tướng không lực Hoa Kỳ, Chỉ huy Không đoàn
14 - còn được biết đến với cái tên nổi tiếng "Mãnh Hổ Bay", là cố vấn
cấp cao cho lực lượng không quân Quốc Dân Đảng thời Đệ nhị thế chiến
[15] Archimedes L.A. Patti (1914-1998)
là cựu sĩ quan tình báo, người đứng đầu phái bộ tiền trạm OSS đến Hà
Nội tháng 8 năm 1945 để thực hiện nhiệm vụ giải cứu tù binh và chuẩn bị
cho việc giải giới quân Nhật tại Bắc Đông Dương. Thời gian này, ông có những
tiếp xúc với Hồ Chí Minh và chứng kiến ngày lễ Độc lập của Việt Nam.
Năm 1980, ông cho xuất bản quyển hồi ký "Tại sao Việt Nam?", ghi chép
lại những sự kiện chính trị quan trọng và về vai trò của người Mỹ tại Việt Nam
trong giai đoạn này.
[16] Ngày 16
tháng 7 năm 1945, nhóm Con
Nai thuộc cơ quan tình báo Mỹ OSS do Thiếu
tá Thomas chỉ huy nhảy dù xuống vùng lân cận làng Kim Lung
cách Tuyên Quang 20 dặm về phía đông. Nhóm tình báo Con Nai được lực lượng Việt Minh
tại Tuyên Quang gồm khoảng 200 người đón tiếp. Trong vòng một tháng, nhóm Con Nai đã huấn luyện cho lực lượng
Việt Minh cách sử dụng những vũ khí Mỹ và chiến thuật du kích.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, nhóm Con Nai cùng Việt Minh về Hà Nội và tham dự lễ
thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
[17] Tại lán Nà
Lừa ông Cụ ốm nặng và nói với ông Võ Nguyễn Giáp “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng
phải kiên quyết giành cho được độc lập
[18] Út Vân ở Sài Gòn gửi thư cho Anh Ba nhưng
không tới.(Chi tiết này được nhà văn Sơn Tùng nói chuyện)
[19] Giai cấp thống trị trong xã hội dân tộc
Thái thời trước.
[20] Nạn đói năm Ất Dậu là một thảm
họa nhân đạo xảy ra tại miền Bắc Việt Nam trong khoảng từ tháng
10 năm 1944 đến tháng 5 năm 1945 làm khoảng
từ 400.000 đến 2 triệu người dân chết đói
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét