Trường ca Hồ Chí Minh. Phần II Bôn ba ( 1801 -2000)
++++
1801.Đảng phái sa lông
dâng trào
Chính phủ thân Nhật
mũ cao áo dài
Hóng chờ nho chín
để xài
Thực là một lũ bất
tài sợ Tây
Hà Nội không vội
là đây
Lòng dân ấp ủ một
ngày sao rơi
Mạch nguồn phải
biết cách khơi
Vàng trong dân phải
có người làm tin
Biết bao cô gái
ngoan xinh
1810. Lỡ thời thất tiết phí nghìn vàng danh
Cần lao đồn thổi
rất nhanh
Đế vương xa giá rừng
xanh sắp về
Tiếng súng ở mấy
miền quê
Sao vàng cờ đỏ lời
thề quyết tâm
Đêm đêm bước chân rầm rầm
Hát diệt phát xít
cứu dân cứu nhà
Giang hồ trộm cướp
nghe ra
Chúng thôi cướp
bóc chuyển qua quân mình
Chùa chiền am miếu
ngôi đình
1820.Cứu quốc quân[1]
ở dân tình dâng xôi
Việt minh cài cắm
tuyệt vời
Thợ hoạn, kẻ sĩ
là người của ta
Lái buôn địa chủ
xông ra
Chống Tây cứu đói
các nhà con dân
Cộng sản khi đó ẩn
danh
Các cấp uỷ đảng rất
rành thời cơ
Nguyễn Khang[2] vào
thành may cờ
Họp chi bộ Đảng
bên bờ ao thôn
Chùa Hà nơi cầu vọng
con
1830.Cầu tình tình được, cô hồn rất thiêng
Cốm Làng Dịch Vọng[3] giã
nghiêng
Hạt dẹt tròn dẻo
đem chiên thơm lừng
Không chờ quân lệnh
từ rừng
Thời cơ đã đến ngập
ngừng là thua
Tướng ở tiền
duyên từ xưa
Tự quyết không phải
hỏi vua làm gì
Sáng ngày Mười chín
tháng Thu
Cần lao vác trống
rúc tù và công
Sao vàng cờ đỏ
công nông
1840.Thay cờ ba sọc ở trong các Toà
Sắt tây cuộn
thành chiếc loa
Bảo an đoàn trại
bị ba phát đòm
Một số nông dân
bán rơm
Tiện thể phóng hoả
khói thơm ngút trời
Quân Nhật thua trận
xả hơi
Kệ dân đất Việt
tranh đòi tự do
Làng quê tỉnh lỵ
reo hò
Trống rền, gậy đập,
đốt lò khói xanh
Việt Minh thực chất
tranh giành
1850.Chính quyền bị cướp cũng đành chịu thôi
Cách mạng đâu phải
long trời
Kiểu bắn pháo hạm
của người Nga Xô
Trọng Kim[4], Bảo
Đại[5] trơ
trơ
Mắt nhìn có vẻ
nghi ngờ Việt Minh
Tưởng Tây Sơn,
Nguyễn Quang Bình
Đánh ra miền Bắc
thình lình về Nam
Việt Minh sơ lược
võ trang
Dùng súng bằng gỗ,
đập càng kéo xe
Lòng người có rãnh
có khe
1860.Giải tỏa áp bức nhất tề đứng lên
Sĩ phu đầu cầu
Tràng Tiền
Mũ ni quắp má ưu
phiền Nam ai
Điệu hò xứ Huế ngắn
dài
Sông Hương nước
chảy tượng đài trơ vơ
Chuông chùa Thiên
Mụ ngẩn ngơ
Đò về Vĩ Dạ thuyền
chờ Văn Lâu
Thái Hoà hương đỉnh
u sầu
Hoàng thành rêu
phủ hào sâu đặc bèo
Gió thu thổi hàng
thông reo
1870.Quan Nguyễn Công Trứ[6]
không theo kiếp người
Dự rằng chuyên chế
muôn đời
Súng ầm Cửa Thuận
cát bồi Lăng Cô
Tình yêu đất nước
vô tư
Quan quân nhà
Nguyễn không từ gian nan
Thế giới đang thời
lật trang
Cộng hoà tư sản
đi sang đất người
Khoẻ cưỡi đầu yếu
muôn đời
Dân ngu dễ bảo
dân chơi dễ lừa
Chế độ thuộc địa
nhiều mùa
1880.Bên nền quân chủ dân thua xích xiềng
Núi cao bởi ánh
chiều nghiêng
Leo lên lại thấy
núi miền kia hơn
Lưỡi trai lệch,
miệng thờn bơn
Chó mèo ngắm ngía
chê lông mày dầy
Bằng nhau là món
chả cầy
Kiếp người đã bị
trời đầy từ lâu
Khố rợ phải nấm
nát nhầu
Đổi thay cách mạng
nhiều mầu mây trôi
Ỳ trệ chắc chắn bị
toi
1890.Hùm thiêng sa hố theo voi sập hầm
Thượng Chi treo ấn âm thầm
Uống trà rũ áo không cầm cờ ai
Hoa Đường[7] biệt thự
quả sai
Bầu đoàn no đủ tiêu xài hàng rong
Quan trường đến lúc nản lòng
Buông trôi thời thế bằng không bất
kỳ
Người nhà Hữu Bài[8] giải đi
Bắn luôn hai vị quan vì hiềm xưa
Sinh ra ân oán thâm thù
1900.Nhà Ngô chấp chính bắt tù Việt Minh
Cần lao tính cách thất tình
Kiểu đa nhân cách từ bình minh lên
Giữa hai làn đạn đảo điên
Tư thù xen kẽ lê xiên xích cùm
Võ quan họ Phan tên Hàm
Biết người họ Nguyễn Hữu làm quân
ta
Con cháu lặn lội khóc òa
Cụ rằng : “Lịch sử xét tra sau này
Các cháu hăng hái mê say
1910.Đi theo cách mạng có ngày thành danh”
Phó Tướng Trần Huy[9] vào Thành
Tiếp nhận Bảo Đại đầu xanh cựu
hoàng
Mỗi bên nổ ba tiến đoàng
Cờ vua lên xuống, bẽ bàng ấn gươm
Cờ Ta sao béo gườm gườm
Kinh Thành Huế vẫn gió buồn nhớ
nhung
Chu Xương[10] vệ sĩ yêng
hùng
Cụ mời ngồi xuống cho dùng thuốc
thơm
Cụ rằng : Ngựa đã tung bờm
1920.Đạn ra nòng súng đỏ ngòm nước Nam !
Ý Cụ bắt Triều đình giam
Kiểu Ăng lê phớt đã làm từ lâu
Cựu hoàng bữa cuối u sầu
Sau làm cố vấn ghế đầu Ủy ban
Hoàng cung dịch chuyển vào Nam
Chức danh Quốc trưởng quai hàm rất
oai
Dẫu lìa ngó ý còn dai
Tơ hồng vương vấn tuyền đài vấn
vương
“Một cơn gió bụi”[11] đau
thương
1930.Trọng Kim- cựu thủ cùng đường Cao nguyên
Sài Gòn xứ
sở kim tiền
Chúng dân
no đủ mặt hiền như mơ
Đảng phái
nhận thấy thời cơ
Rắp tâm dựng
một ngọn cờ ly khai
Nam Kỳ quốc[12] lắm anh
tài
Dân chủ tư
sản chơi bài ngửa ra
Anh chị lọc
lõi ranh ma
Bảo kê
chính khách quen sa lông ngồi
Xứ uỷ Nam
kỳ phục hồi
1940.Khởi binh lớp lá từ nơi bưng biền
Từ xã huyện
tỉnh tiến lên
Tầm vông
nhọn hoắt trống rền phủ Tây
Vũng Liêm
nổi tiếng một tay
Non hai
mươi tuổi bắp cày võ trang
Biệt danh
chú Sáu[13] nhân dân
Bí thư huyện
uỷ sau lần lần thăng
Văn Giàu[14] cao học
Phờ răng
Phương
Đông tu luyện ngang bằng Dân Tiên[15]
Ông về Nam
bộ cướp quyền
1950.Xuống tay quá mức chẳng phiền toái ai
Tuyên ngôn
công trạng một bài
Gốc địa chủ
muốn ly khai song kỳ
Trát đòi
Giàu phải ra đi
Sống đời học
thuật số như Liệu Trần[16]
Giao thời
nhiều kẻ tranh giành
Hỗn mang
bát nhào trở thành phân ly
Loài người
gốc ở Đông Phi
Hành hương
các hướng mầu bì trắng đen
Bọn người
da trắng lớn lên
1960.Bọn da màu nhám vững bền số đông,...
Út về thăm
bến nhà Rồng
Nghe còi
tàu hú nóng lòng nhớ Ba
Biết rằng
người ấy ở xa
Đế vương
còn nhớ ngày ta hẹn hò?
Thông đường
nhưng vẫn phải dò
Vào tù ra
khám hỏa lò nhiều nơi
Đường về
có lúc Cụ ngồi
Xe con dặt
dẹo như trời hành nhau
Nằm cáng
quân đi trước sau
1970.Đến làng Gạ,[17]
Cụ nhức đầu dừng chân
Sư bên nước
Phạn lại gần
Đổi trao
bùa ngải mệnh quân vương rồi
Đào Nhật
Tân chúm chím cười
Năm dân chết
đói lạnh trời muộn hoa
Phố phường
Hà Nội nhạt nhòa
Mùa Thu se
lạnh mưa sa ngập đường
Các đệ dọn
dẹp tiền phương
Chọn số 48
phố phường đông dân[18]
Nhà ông tư
sản Nam phần
1980.Bán buôn tơ lụa toàn tằm ăn dâu
Tầng hai
gió thoảng rộng sâu
Phòng làm
việc có hai đầu cửa thông
Bảo vệ mật
canh rất đông
Giả làm
bán báo, hàn đồng thiếc nhôm
Sáng ra
tay xách nách ôm
Bó hoa
tươi đẹp rượu thơm trà hồng
Cô chủ mắt
hạt nhãn lồng
Được trên
căn dặn chăm ông Thượng nầy
Một hôm
vua nắm bàn tay
1990.Khen cô phúc lớn hậu dầy trăm năm
Giai cấp
tư sản rất thâm
Ngôi nhà
cho mượn chỉ tầm ngàn cây
Cháu con
đòi suốt đêm ngày
Đòi đường
tên bố rộng dầy dài xa
Những ngày
Cụ duyệt quốc ca
Thảo Tuyên
độc lập khách ra khách vào
Tuyên ngôn
Mỹ Pháp dạt dào
Dân sinh,
dân chủ, dân trao lợi quyền
Pát ty, Mạnh Tường[19] được quyền
2000.Đọc dịch hiệu đính ra tuyền chữ Tây
[1] Cứu quốc quân là tên gọi chung
chỉ các đội du kích chống Pháp của Việt Nam ở chiến khu Bắc Sơn trong
thời kỳ 1941-1945; tháng 5 năm 1945,
Cứu quốc quân đã hợp nhất với Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng Quân,
trở thành Việt Nam Giải phóng quân.
[2] Nguyễn Khang (1919-1976) là một
cựu chính trị gia Việt Nam. Ông từng là Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ năm
1945, người đầu tiên quyết định và trực tiếp lãnh đạo thành công cuộc Tổng
khởi nghĩa Hà Nội trong Cách mạng tháng Tám, Ủy viên Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt.
[3] Tên nôm là
làng Vòng có chùa Hà, nay phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, Hà Nội
[4] Trần Trọng Kim (1883 - 1953) là
một học giả, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu sử học, văn học, tôn
giáo Việt Nam, bút hiệu Lệ Thần từng
làm thủ tướng của chính phủ Đế quốc Việt Nam vào
năm 1945 (chính phủ này được Đế quốc Nhật Bản thành lập
trong thời kỳ chiếm đóng Việt Nam).
[5] Bảo Đại (1913 - 1997),
tên khai sinh: Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy
là hoàng đế thứ 13 và là vị vua cuối cùng của triều đại nhà Nguyễn,
cũng là vị hoàng đế cuối cùng của chế độ quân chủ trong lịch sử
Việt Nam.
[6] Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858)
là nhà chính trị, nhà quân sự và nhà thơ thời nhà
Nguyễn. Ông làm quan qua các đời vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu
Trị và Tự Đức. Ông nổi bật về việc khai hoang, mộ dân ở và lập nhiều
chiến công trong việc đánh dẹp các cuộc nổi dậy chống triều đình và
trong Chiến tranh Việt–Xiêm (1841–1845). Ông viết: Kiếp
sau xin chớ làm người/Làm cây thông đứng giữa
trời mà reo/Giữa trời vách đá cheo leo/Ai
mà chịu rét thì trèo với thông.
[7] Biệt thự
bên bờ sông đào Phủ Cam, Huế.Ngày 9-3-1945, Nhật đảo
chính Pháp, Phạm Quỳnh (Thượng Chi) lui về sống ẩn dật ở biệt thự.
[8] Nguyễn Hữu
Bài (1863 -1935) là Thượng thư Bộ Lại trong triều đình Huế. Tướng Phan Hàm
cho biết, người nhà Nguyễn Hữu Bài tham gia xử bắn ông Phạm Quỳnh. Khi làm quan
hai ông Thượng thư có hiềm khích.
[9] Trần Huy Liệu (1901 -1969)
là một nhà văn, nhà hoạt động cách mạng, nhà sử học, nhà báo Việt Nam.
Tháng 8 năm 1945, ông dự Đại hội Quốc dân ở Tân Trào và được
bầu làm Phó chủ tịch Ủy ban dân tộc giải phóng, Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền trong chính phủ đầu tiên của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, là chủ tịch đầu tiên của Hội Khoa học Lịch sử Việt
Nam..
[10] Chu Đình
Xương (1913 - 1985) là cán bộ cao cấp của ngành công an, từng giữ chức Giám đốc
Sở Công an Bắc Bộ năm 1945, Phó Giám đốc Sở Công an Trung Bộ, Giám đốc Sở Công
an Nam Trung Bộ, sau chuyển ngành làm Chánh Văn phòng Bộ Văn hóa. Ông kể với
con ông là GS.Chu Hảo “…đoàn công tác vào Huế để tước ấn kiếm và buộc Bảo Đại
thoái vị thì Bác Hồ tỏ ra không bằng lòng: “Sao các chú dại thế? Thế giới người
ta đang nhìn mình “đỏ loè”, còn một chút “vàng vàng” thì các chú lại bôi cho “đỏ”
nốt!”
[11] Cuốn Hồi
ký do Trần Trọng Kim (1883-1953) viết năm 1949, xuất bản lần đầu tiên
năm 1969 mang nội dung tóm lược quãng đời làm chính trị của ông từ
năm 1942 đến năm 1949.
[12] Cộng hòa Tự
trị Nam Kỳ là chính thể bán độc lập
tồn tại giai đoạn 1946 - 1948 tại địa phận Nam Kỳ thuộc Liên hiệp
Pháp nhưng không được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công nhận.
[13] Võ Văn Kiệt (1922 - 2008) là nhà chính trị Việt Nam, Thủ tướng
Chính phủ, quê ấp Bình Phụng, xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh
Long, Trong thời gian Khởi nghĩa Nam Kỳ ông là Huyện ủy viên, Bí thư
chi bộ tại huyện Vũng Liêm.
[14] Trần Văn Giàu (1911 - 2010)
là nhà hoạt động cách mạng, nhà nghiên cứu lịch sử, triết học và
nhà giáo Việt Nam. Năm 1928, sau khi tốt nghiệp Tú tài, ông được gia
đình cho sang Pháp du học tại Đại học Toulouse với lời hứa
"mang về hai bằng tiến sĩ"; giữa năm 1931, ông được tổ chức đưa
sang Liên Xô học tại Trường Đại học Đông Phương. Ông làm Bí thư
Xứ ủy Nam Kỳ, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ.
[15] Trần Dân Tiên là tác giả của
cuốn tiểu sử nổi tiếng “Những mẩu
chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”. Đây cũng là tác phẩm duy nhất
của tác giả Trần Dân Tiên. Có ý kiến cho rằng Trần Dân Tiên là bút danh của Chủ
tịch Hồ Chí Minh.
[16] Trần Huy Liệu, đã chú dẫn.
[17] Nay là làng
Phú Gia (tên nôm là làng Gạ),phường Phú Thượng, quận Tây Hồ, Hà Nội. Ngày 23 đến
25- 1945 Cụ Hồ ở đây trên đường về Thủ đô.
[18] Nhà số 48
Hàng Ngang của ông bà Trịnh Văn Bô nằm giữa khu phố cổ, trung tâm thương mại sầm
uất của Hà Nội xưa, nay thuộc phường Hàng Đào, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, Trung
ương Đảng chọn làm nơi ở và làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những ngày
đầu Người từ chiến khu Việt Bắc về Hà Nội tháng 8/1945.
[19] Nguyễn Mạnh Tường (1909 -1997)
là một luật sư, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu văn học Việt Nam. Năm 23
tuổi (1932) ông đỗ liên tiếp hai bằng Tiến sĩ tại Pháp, được
khen ngợi là một tài năng hiếm có.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét