Trường ca Hồ Chí Minh
Phần II Bôn ba (2001-2022)
Phần III. Đế Vương (2023-2200)
2001. Chuyện chỉ
thế nhưng đến nay
Dệt thêu
muôn chuyện vừa hay vừa buồn
Xung quanh
việc thảo Tuyên ngôn
Rõ ràng Cụ
muốn con đường Tự do
Theo Đồng
Minh được ấm no
Sau theo Cộng
sản chẳng so đo gì
Chính
cương sách lược bước đi
Đánh trúc
phong kiến nạp quy thổ điền
Phát canh
thứ tự ưu tiên
2010.Như ngàn năm trước thánh hiền dạy vua
Ngoại xâm
không đánh chúng thua
Phải đàm để
chúng chọn mùa lui quân
Tất cả phải
từ nhân dân
Chọn đường
kách mệnh áo quần phải đo
Đói ăn bụng
lép thân cò
Cần lao
bãi bỏ những trò nhố nhăng
No cơm ấm
cật bụng căng
Cần lao
vui vẻ gọi thằng là ông
Củng cố
liên minh công nông
2020.Chiếc xe hai bánh cõng đồng bào ta
Chỉ huy nhất
thiết phải là
Tận trung
với nước thương nhà yêu dân
Phần III: ĐẾ VƯƠNG
2023 . Chính phủ
lâm thời nhiều chân
Cho các Đảng
phái sống gần sa lông
Các đệ
chinh chiến lập công
Tạm lùi một
bước đẹp lòng quốc dân
Anh em Tường
Tam, Tường Lân[1]
Nhậm chức
Bộ trưởng muôn phần sướng vui
Chu Bá
không quá ngậm ngùi
2030.Thượng thư một suất thoái lui sau này
Quan chức
thay đổi theo ngày
Thượng
sách hàng tẩu nhiều tay giã từ
Chọn ngày
tháng Chín mùa Thu
Ba Đình nắng
đẹp mây mù sớm tan
Anh em tự
vệ, công an
Ra đời trận
Bảo an đoàn bị thua
Rất nhiều
cộm cán a dua
Thích chế
độ mới chúng mua súng đòm
Chắc chân
được nhiều kẻ ôm
2040.Đổi chiều ngọn gió cá tôm dạt bờ
Ngày xưa
Tào Tháo[2] nghi ngờ
Anh Văn thử
thách bắt chờ ít lâu
Nhiều tay
anh chị cực ngầu
Theo quân
ông Cụ cái đầu đổi thay
Rượu ngon
dụ tình mê say
Việt Minh
hấp dẫn những tay giang hồ
Thói hư tật
xấu dần mờ
Đầu quân
ông Cụ chúng thờ thánh nhân
Những khi
được ông Cụ gần
2050.Những lời có cánh thêm phần tự tin
Ngày đầu sức
mạnh Việt Minh
Công an
xung kích dập dình khắp nơi
Ba Đình nắng đẹp xanh trời
Bục cao Chính phủ lâm thời đứng tuyên
Lời khai quốc được lan truyền
Công lao dân Việt đặt lên hàng đầu
Phái bộ Mỹ trang phục Âu
Hoa quân, đảng phái áo Tầu, quần Ta
Nổi lên bài Tiến quân ca[3]
2060.Quốc thiều xung trận tiến ra
sa trường
Nữ sinh áo trắng Trưng Vương
Có con Rồng cái[4] nõn
nường vung tay
Đệ nhất phu nhân sau này
Bắt bớ cộng sản dao phay xén đầu
Kẻ hóng Pháp, đứa chờ Tầu
Những mong quyền lợi đậm mầu mỡ ngon
Chánh quyền như vợ chồng son
Niềm vui hạnh phúc vẫn còn dư âm
Học thuật kinh nghiệm nâng tầm
2070.Thực hành những việc dân cần
có ngay
Giặc đói bị đánh thẳng tay
Bình dân học vụ giết bầy giặc ngu
Ngoại xâm, nội phản thâm thù
Kẻ nào manh động không tù mà tiêu
Tuần lễ vàng rất đáng yêu
Trịnh Văn[5]
tư sản hiến liều của dư
Ngàn cây vàng lấy tờ thư
Vua khen cô chú bậc tu tỉnh đời
Ngân khố bị rút sạch rồi
2080.Chánh quyền thân giặc mổ moi
cá chuồn
Hoạt động kinh tế bình thường
Cuối năm Ất Dậu ruộng nương trúng mùa
Ngô khoai rau quả bội thu
Cá tôm búng nước, chim gù trên cây
Hải Thần bói toán bậc thầy
Bấm độn vận số tháng ngày quy tiên
Theo Ta Thần hẻo đồng tiền
Từ quan ôm trát sang miền Trung Hoa
Tiền bói toán, tiêu sướng nhoà
2090.Hải Thần chọn cách hài hoà sống
nhăn
Điện thư gửi ông Tru man[6]
Cầu mong Mỹ quốc kết thân nước mình
Đã từng chiến với đồng minh
Đuổi Nhật dựng nước thực tình tự do
Tình báo Viễn Đông hỏi dò
Pat ty báo cáo nghi ngờ anh Ba
Từng học sinh giỏi bên Nga
Hoạt động ở đất Trung Hoa dài dài
Báo cáo có nhiều điểm sai
2100.Tam thập niên hậu thượng đài
chiến tranh
Gái trai đang tuổi đầu xanh
Kìm hãm sung sướng, để giành là toi
Cơ hội tốt đẹp bị trôi
Từ ân ra oán xáo nồi thịt xương
Cùng là đồng cấp đế vương
Xưa nay mai nữa vẫn thường khác xa!
Hậu quả Nhật
để cho ta
Chết đói
ly tán dân tha phương trời
Khổ đau tưởng
đã qua rồi
2110.Đồng minh quyết định gây nòi sói lang
Hoa quân hai
mươi vạn thằng
Lư Hán[7] làm tướng
tràn sang nước nhà
Bọn này trộm
chó bắt gà
Cướp trâu
bò, hiếp đàn bà thanh niên
Chúng bắt
dân ta tiêu tiền
Quan kim[8] giấy lộn
dân điên tiết rồi
Cụ rằng :
các chú mất mồi
Còn hơn để
chúng giết người tràn lan
Những năm
tháng ở Vân Nam
2120.Quen biết Trương Phát, Tiêu Văn tướng Tầu
Cụ khuyên
Hoa quân bớt ngầu
Vừa qua nạn
đói lấy đâu ra hàng
Sớm về sẽ được
tặng vàng
Quà cho
các tướng đàng hoàng chia tay
Người Tàu,
Pháp thích ăn dày
Vân Nam tô
giới Tưởng cay đắng nhìn
Người đời tay
nắm con chim
Ai bắt con
cá ẩn chìm nước sâu
Hoa quân
phải bỏ cần câu
2130.Quay về cố quốc, Pháp thâu lại quyền
Toàn bọn
mua bán bất lương
Chiến
tranh thua trận sang phường ăn hôi
Mao quân
bung lụa lên trời
Cởi trần
đánh Tưởng quyết đòi giang sơn
Nam Kỳ
không khá gì hơn
Ăng lê đưa
lính lê dương tràn vào[9]
Nhật lùn thua
trận hỗn hào
Theo Anh-Pháp-Ấn
đánh vào Việt Minh
Tham của
đánh mất lý tình
2140.Bầy đàn ô
lại toàn rình xiên xâu
Bảo Đại mê mẩn rừng sâu
Săn chim, bắn thỏ xơi chầu
rượu ngon
Vui vầy ca kỹ hầu non
Mặc Nam kỳ quốc mất còn
không hay.
Thời Trịnh xuất hiện một tay
Chim ó Hữu Chỉnh[10] mưu bày kế cao
Giúp quận Việp đánh thẳng
vào
Quan quân chúa Nguyễn ào ào
chạy thua
Hồ Thơm tóc xoắn không vừa
2150.Kéo
binh ra Bắc xua lùa Trịnh Lê
Xưng hùng tranh bá rất ghê
Núi sông đất Việt đá thề ngổn
ngang
Hai trăm năm chia đôi Đàng
Sông Gianh nước xiết máu tràn
bể khơi.
Bưng biền sản vật bời bời
Giang hồ tụ nghĩa định xơi
Nam kỳ,...
Bính Tuất dồn dập quân đi
Việt Minh Nam tiến[11] cấp sư đoàn thừa
Quà cho quà tặng quà mua
2160.Nhà
ga Hàng Cỏ tiễn đưa lên tàu
Mẹ già thâm thụng áo nâu
Khóc cười đưa tiễn con đầu
tòng binh
Tuất tru tréo lửa chiến
chinh
Năm dậu sang tuất nước mình
khổ đau
Để lại trang sử mai sau
Đế vương đời mới gỡ đầu tằm
tơ
Chiến khu binh tướng làm thơ
Mang gươm mở cõi bao giờ
cũng vui[12]
Nam bộ kháng chiến bùi ngùi
2170.Đoàn
Ba lẻ bảy[13] luồn chui xuất thần
Đánh nhau chỉ độc chiếc quần
Mồ ma rừng đước, phơi thân rừng
tràm
Giặc Pháp càn quét miền Nam
Việt Minh về cứ dựng vàm chiến
khu
Chín năm chồng chất oán thù
Hai mốt năm nữa một trưa Sài
Gòn
Xe tăng hành tiến bon bon
Húc tung cửa sắt, chỉ còn một
Bên
Mộng mơ ngắn ngủi Tràng Tiền
2180.Kinh thành khói lửa ngút triền
non xanh
Giật mình nghe pháo cầm canh
Hải Vân xây bốt, Thuận An đóng đồn
Dân thành phố Huế bồn chồn
Nhớ ngày giỗ trận mồ chôn ngàn người[14]
Hàm Nghi, Thất Thuyết[15]
tháo lui
Cần Vương ra Bắc bước lùi tàn canh
Việt Minh lùi tiến rời Thành
Chiến khu muôn thuở rừng xanh A Sầu
Đò về bến Phú Văn Lâu
2190.Bóng Phan chí sĩ thả câu ẩn
mờ[16]
Thành nội hoàng tộc thẫn thờ
Nhang tàn, nước mắt ngấn bờ mi thưa
Huế buồn thăm thẳm mùa mưa,
Trắng trời núi Ngự, sớm trưa mịt mùng.
Nhiều lần cận cõi lâm chung,
Mậu Thân thất thủ Huế khùng, Huế điên.
Kinh kỳ đặt trái cung Điền,
Ba triều đại đổ phục quyền thù nhau.
Huế còn khắc nghiệt thương đau,
2200. Sông Hương mặn ngọt nước sâu
đổi dòng.
[1] Nguyễn Tường Tam (1906 - 1963)
là một nhà văn, nhà báo với bút danh Nhất Linh…Ông là người thành
lập Tự Lực văn đoàn và từng là Chủ bút tờ tuần báo Phong Hóa, Ngày Nay.Về sau, ông còn là người
sáng lập Đại Việt Dân chính Đảng, từng làm Bí thư trưởng của Việt Nam
Quốc dân Đảng (khi Đại Việt Dân chính Đảng hợp nhất với Việt Nam Quốc dân
Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng) và giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao
trong Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến. Một số đại biểu Quốc hội không phải
bầu là người các đảng phái khác đảng cộng sản. Em ông là Nguyễn Tường Long tức
nhà văn Hoàng Đạo (1907-1948) từng làm Bộ Trưởng trong chính phủ
Liên hiệp, Nguyễn Tường Lân tức nhà văn Thạch Lam (1910
-1942).
[2] Tào Tháo (155 – 220) là một nhà chính trị,
nhà quân sự và còn là một nhà thơ nổi tiếng cuối thời Đông
Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người đặt cơ sở cho thế lực quân
sự cát cứ ở miền Bắc Trung Quốc, lập nên chính quyền Tào Ngụy thời Tam
Quốc
[3] Tiến quân ca là một bài hát do nhạc sĩ Văn Cao (1923–1995) sáng tác
vào năm 1944 và được sử dụng làm quốc ca của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
[4] Trần Lệ Xuân (1924 -
2011) là một gương mặt then chốt trong Chính phủ Ngô Đình
Diệm (chồng của bà là Ngô Đình Nhu, em trai và cũng là cố vấn thân
cận nhất của Ngô Đình Diệm). Chính quyền họ Ngộ bị đảo chính tháng 11-1963 bà
đang ở nước ngoài, từ đó buộc phải lưu vong cho đến cuối đời. Cuốn sách “Madam Nhu Trần Lệ Xuân -
Quyền lực Bà Rồng” của tác giả Demery, Monique Brinson (2013).
[5] Trịnh Văn Bô (1914-1988) là một thương
nhân Việt Nam giữa thế kỷ XX. Ông là nhà tư sản theo chủ
nghĩa dân tộc, từng ủng hộ cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời Việt
Nam 5.147 lượng vàng, tương đương số tiền gần gấp đôi ngân khố chính
phủ bấy giờ. Gia đình ông đi kháng chiến, đến năm 1955 ông được phân công
giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính Hà Nội cho đến ngày nghỉ hưu.
[6] Trong hai năm 1945 -1946, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã có 8 thư và điện gửi Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman (1884 -1972).
[7] Lư Hán (1895-1974), Chủ
tịch Chính phủ tỉnh Vân Nam, cấp bậc tướng giữ
chức Tư lệnh quân đoàn. Cuối tháng 8 năm 1945, ông dẫn 20 vạn quân Tưởng sang
miền Bắc Việt Nam giải giáp quân Nhật. Sau năm 1950, Lư Hán lần lượt đảm nhiệm
các chức Chủ tịch quân ủy Vân Nam, phó chủ tịch quân ủy Tây Nam, ủy viên thường
vụ Quốc hội CHND Trung Hoa.
[8] Đồng tiền
tách biệt với đồng tiền chính thức của Chính phủ Trung Hoa Dân quốc. Quân Tưởng
vào Việt Nam tháng 8-1945 áp đặt 1 đồng quan kim ăn 1,5 đồng Đông Dương và 13,3
đồng quốc tệ của họ ăn 1 đồng Đông Dương.
[9] Hơn 20.000 quân Anh, Ấn Độ vào miền Nam Việt Nam giải giáp quân Nhật,
cùng 2500 quân Pháp và một số tiểu đoàn lính Nhật hàng binh của Anh được tái vũ
trang đã liên tục tổ chức các cuộc hành quân giao chiến với quân Việt Minh từ
tháng 9/1945 đến tháng 5/1946.
[10] Nguyễn Hữu Chỉnh (1741-1788), là nhà quân sự (giỏi thủy chiến, còn gọi ông là chim ó biến),
chính trị có ảnh hưởng lớn của Đại Việt thời Lê trung
hưng và Tây Sơn. Ông là người hiến kế cho Quang Trung (Hồ Thơm) tiến
quân ra Bắc, tiêu diệt chúa Trịnh, trả nước cho vua Lê. Năm 1787-1788, ông
được Lê Chiêu Thống phong làm Đại tư đồ Bình chương quân quốc trọng sự,
nắm thực quyền cai quản miền bắc Đại Việt (Bắc Hà/Đàng Ngoài), sau ông bị quân
Tây Sơn đánh bại và giết chết. Ông từng dưới trướng đại thần Hoàng Ngũ
Phúc của triều Lê- Trịnh.
[11] Đoàn quân Nam tiến - Các chi đội
"Nam tiến" của Vệ quốc quân Việt Nam vào miền Nam trong các
năm 1945-1946 để giúp quân dân miền Nam chống lại quân Pháp đang tấn
công ở Nam Bộ.
[12] Huỳnh Văn Nghệ (1914-1977)
là một nhà hoạt động cách mạng và là một chỉ huy quân sự Việt Nam, nổi
tiếng về tài thi ca, có những câu thơ được nhiều người truyền tụng.
Ông được nhà nước Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực
lượng vũ trang nhân dân, vì những đóng góp trong thời kỳ chống
Pháp và Giải thưởng Nhà nước về nghệ thuật. Bài thơ Nhớ
Bắc của ông làm tại Chiến khu Đ năm 1946 với 4 câu tuyệt bút mở đầu đã
được nhiều thế hệ người Việt Nam truyền tụng: Ai về xứ Bắc ta đi với/Thăm lại
non sông giống Lạc Hồng/Từ độ mang gươm đi mở cõi/Trời Nam thương nhớ đất Thăng
Long.
[13] Tiểu đoàn 307 là tiểu đoàn chủ lực cơ
động đầu tiên tại Nam bộ của Quân đội nhân dân Việt
Nam trong kháng chiến chống Pháp, thành lập ngày 1- 5 -1948 tại
Đồng Tháp Mười. Tiểu đoàn được nhiều người biết đến một phần cũng do một bài
hát cùng tên của nhạc sĩ Nguyễn Hữu Trí (1917-1979) viết về tiểu đoàn
này.Ít người biết ông là tác giả, năm 1978 từ quê vợ ở Bạc Liêu ông lâm bệnh, gửi
thư về Đài Tiếng nói Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị nhận nhuận
bút.Trên thực tế, vẫn còn một tiểu đoàn 307 khác cũng từng tham chiến tại miền
Nam. Cả hai tiểu đoàn này về sau đều được tuyên phong Anh hùng lực lượng
vũ trang nhân dân
[14] Trận kinh thành Huế năm 1885 là một sự kiện chính trị, một trận
tập kích của quân triều đình nhà Nguyễn do Tôn Thất Thuyết chỉ
huy đánh vào lực lượng Pháp. Trận đánh tại Kinh thành đêm 22 tháng 5 năm Ất
Dậu (1885), thất bại hoàn toàn về phía triều đình Huế. Pháp chỉ chết có
16 người, bị thương 80 người, còn quân Nam chết đến 1.200-1.500 người.
[15] Tôn Thất Thuyết (1839 – 1913),
là quan phụ chính đại thần, nhiếp chính dưới triều Dục Đức, Hiệp
Hòa, Kiến Phúc và Hàm Nghi của triều đại nhà Nguyễn.
Ông thay mặt vua hạ chiếu Cần Vương kháng chiến chống Pháp. Hai con trai của
Tôn Thất Thuyết là Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp cũng đều
là chỉ huy trong phong trào Cần Vương. Người Pháp treo giải 2000 lạng bạc cho
ai nộp đầu Tôn Thất Thuyết và ai bắt được vua Hàm Nghi thì được thưởng 500 lạng
bạc.
[16] Ngày 30- 6-1925, Phan Bội Châu (1867 - 1940)
bị thực dân Pháp bắt cóc tại Thượng Hải giải về nước xử án tù
chung thân, mặc dù trước đó (1912) ông đã bị Pháp kết án vắng mặt. Trước phong
trào đấu tranh của nhân dân đòi thả Phan
Bội Châu, nhờ sự can thiệp của Toàn quyền Varenne, ông được về an trí tại
Bến Ngự (Huế), được gọi là Ông già Bến Ngự.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét