Trường ca Hồ Chí Minh. Phần III. Đế Vương (2701-3000 )
++++
2701.Hưu chiến sức dân nở hoa,
Kết quả khác loại bất hoà
tăng lên.
Toan tính của mỗi một Bên,
Như Đông Tây Đức giống
Triều Tiên kia.
Đế Minh rất sớm ngộ ra,
Giang sơn một cõi phải là đấu
tranh.
Miền Nam đậu phộng đậu nành,
Năng suất cao ngật giật
giành thế công.
Lê nin thiết chế công nông,
2710. Kêu gọi tư sản giúp đồng bào Nga.
Quản lý kinh tế hài hoà,
Năng suất tư bản phải là
ưu tiên.
Đổi mới cách chia đồng
tiền,
Chúng dân no đủ cầm quyền
đủ no.
Giàu có chỉ được tự do,
Trong tầm cương toả, tránh
trò cướp cơm.
Học phượt, hành sượng bờm
xơm,
Sinh ra một lũ lôm côm bất
tài.
Một buổi Cụ thuyết trình
dài,
2720. Quan chức gật gật nghe bài sấm thôi.
Sáu Búa[1] nhận mình thiên lôi,
Thực ra là bậc bề tôi thượng
quyền.
Sóng Đỏ lúc trẻ tiêu tiền,
Xông xênh một chút mơ miền
đế vương.
Chú Đồng chịu khó chịu
thương,
Giai quê lấy gái phố
phường, hiền khô.
Ngủ trên nguyệt quế thơm
tho,
Giáp Văn ngự phủ cực to Ba
Đình.
Khôn đâu đến trẻ em xinh,
2730. Dại đâu đến bậc đế minh giang hồ.
Lại thêm ông Tố[2] làm thơ,
Xuân Thu Tết đến tôn thờ
Đế vương.
Chín năm công trạng chiến
trường,
Nghĩ mình tài giỏi chẳng
nhường nhịn ai !
Lòng tay Phá luân thiên
tài,
Mu tay lố bịch diễn hài
líu lo.
Nã thua trận Oa téc lô,
Chỉ vì cố đấm xua lùa Liên
quân.
Thống chế Ăng lê xuất thần,
2740. Nã phá luân bại, mộ phần đảo xa.
Ếch chết tại miệng ba hoa,
Mái mơ cục tác trứng và
miệng trăn.
Ếch tìm cua để nuốt ăn,
Ngoé kêu thảm thiết thợ
săn kịp thời,
Bắt trăn rắn bỏ vào nồi,
Sinh tồn có cánh được trời
ban cho.
Quê hương văng vẳng điệu
hò
Sông Lam nước biếc núi cờ
cỏ may
Cu đơ[3] bùi ngọt mê say
2750. Chè vườn thơm mát khoai đầy nồi hông
Tuổi thơ tắm ở bến sông
Chơi trò đuổi bắt tồng
ngồng rất vui
Nhớ mẹ yếm thắm tươi cười
Thoi đưa khung cửi cơm mời
sớm trưa,...
Cha mang phận thân cư thê
Ngoại gốc đất Bắc triền đê
Sông Hồng[4].
Tuổi thơ tên gọi Cung,
Coong,
Chào đời khi núi toác lòng
phân đôi.
Nước chảy như bò đái thôi,
2760. Nam Đàm sinh thánh cho trời Việt Nam[5].
Đồ Nghệ giải nghĩa, tọa
đàm,
Tính bước ấu Chúa, Sào Nam
đỡ đầu[6].
Khác cha không phải chăn
trâu,
Chỉ đi kiếm củi, thả câu
đầm hồ.
Lin - côn[7] đi hết tuổi thơ,
Đọc sách, bổ củi đợi chờ
phao trôi,
Lên làm Tổng thống tuyệt
vời,
Giải phóng nô lệ cứu người
da đen,...
Hầu như các bậc quan trên,
2770. Tính cách khác lạ ở miền tuổi thơ:
Đinh tiên lúc trẻ thích cờ[8],
Cỏ lau trận giả, giết bò
thật ăn.
Lưu Bị hai mắt rất căng,
Nhìn tai thấy nốt ruồi
bằng hạt ngô.
Hít le ngồi đến nhiều giờ,
Giết sạch đàn kiến bằng
trò búa đao.
Hồ Thơm mắt sáng như sao,
Tắt đèn uống rượu khách
nào cũng kinh.
Gia Long từ thuở bình sinh,
2780. Thích xem cày cuốc, hay rình bẫy chim.
Tào Tháo đưa não về tim,
Ngửa mặt cười nấc, phải
tìm đường lui.
Nếu không quá nặng bệnh
cùi.
Vần thơ Hàn Mạc[9] chẳng mùi mẫn chi...
Đường vào xứ Huế chân đi,
Qua đèo vượt suối tuổi thì
thiếu niên.
Bố làm quan nhỏ vừa tiền,
Dân nghèo tạp dịch phu
phen đói mờ.
Kinh Thành một thoáng mộng
mơ,
2790. Còn lại nhiều góc xẩm sờ mưu sinh.
Đồn rằng những lúc một
mình,
Chàng hay tĩnh toạ khai
minh tâm hồn.
Tường kinh thành Huế rêu
buồn,
Điệu hò xưa cũ mỏi mòn
sông Hương.
Khi lên đến bậc đế vương,
Nhớ quê Người thích món
tương ớt cà.
Anh, Chị khăn gói bu gà,
Thăm em giữa lúc nước nhà
cam go.
Chị rằng "Dân chúng
chửi o,
2800. Vò xé ảnh cậu bỏ lò nhóm than"[10]
Huynh trưởng: chú gắng
bình an,
Anh đưa mộ mẹ đặt ngang
núi rồi,
Phong thủy anh xem đúng
nơi,
Một sư nước Phạn cho lời
khuyên hay,
Có người từ trong miền Tây,
Nhắn rằng mộ chí của thầy
hợp long,
Chị về nhà Tổ thuận tòng,
Con đường lãnh tụ hanh
thông vững vàng".
Chị bấm anh Cả nhẹ nhàng:
2810."Thời gian dội nước phũ phàng cậu em
Giá như lật áo lên xem
Phải có nốt đỏ mới êm ấm
lòng".
Ngũ thập niên có vài dòng,
Tài cao khác lạ, đức không
thể nhầm.
Chuyện riêng là cõi âm
thầm,
Chuyện công nhiều vụ vẫn nhầm
lẫn trôi.
Thường dân lắm chuyện lôi
thôi,
Cung đình bí ẩn cuộc đời
đế vương!
Lần đầu về thăm quê hương,
2820.Cha già vẫn nhớ ngày thường ấu thơ,
Lối
mòn nhà ngoại cỏ bờ,
Gió
Lào thổi bốn chục mùa tàn phai,
Cau
cao thân mốc quả sai,
Vườn
hoang cỏ dại tre gai xoắn cành,
Vừa
qua một cuộc chiến tranh,
Dân
làng ly tán đất thành vô cư.
Đế
Minh xao xuyến tâm tư,
Chỉ
rào dâm bụt lối xưa chỗ này[11].
Giang
sơn còn một cánh tay,
2830.Nỗi buồn chia cắt đến ngày nào tan?
Tin
đế vương về thăm làng,
Dân
tràn ra ngõ hô vang đất trời:
"Muôn
năm vạn tuế" đây rồi !
Nhìn
quanh chỉ nhớ vài người ấu thơ.
Hàn
huyên tay bắt, tay sờ,
Dái
tai mắc lưỡi câu giờ sẹo đây.
Tiếng
Nghệ theo gió bay bay,
Đế
cười ngữ điệu tròn đầy âm vang.
Lần
hai trở lại xóm làng,
2840.Cũng là lần cuối nắng tràn đồng quê.
Anh
em ruột thịt đã về,
Bên phần mộ Mẹ núi kia, rú này.
Miền
Nam trong cả vòng tay,
Trái
tim đập nhớ những ngày yêu thương.
Lục thập tính khí thất thường,
Riêng tư sâu kín khó lường hiểm nguy.
Quyết sách, thăng giáng, xét truy,
Theo phân tâm học chỉ vì bế kinh:
Tổng thống nước Mỹ đa tình,
2850.Trăng
hoa lả lướt, vợ xinh vẫn thừa.
Khủng hoảng tên lửa Cu Ba
Hai bên nghinh chiến Mỹ, Nga muốn đòm.
Nhiều lần cãi lộn om xòm,
Nhà trắng bố trí cho ôm chân dài.
Ken-nơ-đi[12]
được xả hơi,
Vào phòng Bầu dục họp cười nói vui.
Phi-đen[13]
chiến thắng ngậm ngùi,
Vợ bỏ sang Mỹ, trống dùi cách xa.
Chiến hữu tàu Gơ-ran-ma[14],
2860.Tìm
nữ đồng chí mát-xa cho Người.
Hòn đảo thơ mộng vui tươi,
Tự do thân thể biển trời đẹp xinh.
Ngày đi Vạn lý Trường chinh,
Ông Mao khao khát diễm tình hành quân,
Gặp nàng kỹ nữ Giang Thanh[15],
Làm cho lò lửa chiến tranh nguội tàn.
Có nam có nữ nên xuân,
Có xôi có thịt có phần trẻ em.
Đế vương nào cũng bị kèm,
2870.Khỏe
đường ong bướm được thêm nhiệm kỳ.
Nhiều vua tặc lưỡi quên đi,
Mẹ gà con vịt ru ri lộn sòng.
Đế Minh không thể nóng lòng,
Tình xưa ở bến Nhà Rồng rất xa.
Mối tình hải ngoại bôn ba,
Bèo trôi về bến phù sa êm đềm.
Các chú bảo vệ gác đêm,
Thấy bên bếp lửa có thêm một người,
Lão thủy thủ đã một thời,
2880.Bôn
ba hải ngoại được mời đến thăm,
Hai Cụ đưa tay chống cằm,
Chuyện xưa đất khách âm thầm với nhau.
Người thường thấm nhẹ nỗi đau,
Đế vương cô quạnh buồn sầu quả nhân.
Tìm người nâng gối sửa chăn,
Quẩn quanh giúp việc nhậm nhằng sớm khuya.
Đế buồn phụ nữ nước ta,
Vô ý vô tứ đi ra đi vào.
Áo quần phơi ở bờ rào,
2890.Lối
đi của khách chỗ chào hỏi nhau.
Một hôm nheo mắt mày chau,
Thẳng thắn bảo đệ thôi chầu mỹ nhân[16].
Tử vi Bác sống độc thân,
Việc riêng có lẽ tự mần lấy thôi.
Một lần chuyện phiếm vui tươi:
“Trên rốn đúng tuổi, dưới thời trẻ trung,
Bác bận nhiều việc của chung,
Chậm chồng muộn vợ xin đừng học nhau”.
Cần lao thương xót nỗi đau,
2900.Đế
vương không có tí nhau nối dòng.
Chuyện này vẫn chưa thể xong,
Bên Tầu mai mối lòng thòng se duyên.
Lâm Lan Trung ương ủy viên,
Đào Chú[17]
mong muốn uyên ương cẩn vào.
Âm mưu này rất là cao,
Bí thơ thứ nhất không trao duyên nầy.
Đã mang vào kiếp sư thầy,
Suốt đời mô phạm không say cõi phàm.
Có người nước Phạn đến thăm,
2910.Trao
cụ tín sắc cỡ tầm cao siêu.
Để cho hậu thế kính yêu,
Tập kinh lên kệ tín điều sáng ra.
Bao lần trở lại nước Nga,
Lần này diện kiến Xít- ta-
lin rồi.
Có hai cái ghế mời ngồi,
Ghế này quốc tế cao vời
nhón chân.
Ghế kia dân tộc hơi bần,
Xít-ta-lin hỏi ông phần
ghế nao?
Đế vương ta có lời chào,
2920.Xuất khẩu cách mạng xin trao quý Ngài!
Đế Minh nhắc ý thiên tài:
Chỗ mắt xích yếu phải quai
búa liền.
Lê-nin sớm về cõi tiên,
Chậm một giáp dân tiêu
tiền thả phanh.
Chính sách kinh tế đẩy
nhanh,
Quân đỏ, quân trắng, quân
xanh hài hoà.
Năng suất chiếc bánh to
ra,
Của cải như nước mọi nhà
công minh.
Chủ nghĩa xã hội chân
tình,
2930.Làm nhiều ăn đẫy, biếng mình cầm hơi...
Xít-ta-lin nhếch ria cười:
Vũ khí thoải mái phải chơi
đến cùng,
Rất khoát phải sở hữu
chung,
Tư nhân bóc lột chúng đùng
đòm Ta,...
Năm Dần bốc quẻ đi xa[18],
Qua Tầu yên ổn, đất Nga
yên bình.
Vũ khí nhiều loại pháo
binh,
Súng đạn quá đát cho mình
đánh Tây.
Giảm tô giảm tức dân cày,
2940.Mô hình Gu-lắc phủi tay rũ quần.
Chiến trường chỉnh cán,
chỉnh quân,
Bắn Bà địa chủ ở gần Thái
Nguyên[19].
Từ hình đại tá tiêu tiền,
Dụ Châu[20] lạm dụng chức quyền tham
ô.
Chiến trường vang a-lô-xô,
Lập công báo quốc tiếng hô
long trời.
Mao định té nước kịp thời,
Cho quân chí nguyện ăn
chơi đất nhà.
Thư từ cho Hồ Đại Ca,
2950.Đế vương chỉ nhận súng và tướng thôi.
Gọng kìm Xô-Trung một thời,
Nay Tàu kiềm toả biển trời
đảo xa.
Mười bảy năm đất Trung Hoa,
Chiếm hơn phân nửa bôn ba nước ngoài.
Bánh bao ăn nhiều hơn khoai,
Hăm-bơ-gơ Mỹ bánh dài Pháp qua.
Anh yêu lát bánh mì Nga,
Đen xốp chấm muối chính là công nông.
Muôn đời chiếm cứ số đông,
2960.Làm
nên lịch sử cho ông bà hoàng.
Tai nghe súng nổ đoàng đoàng,
Pháo hạm xô-viết bàng hoàng thất kinh.
Vào trong sâu thẳm tâm linh,
Vạn cùng bất đắc chiến chinh điêu tàn.
Nhiều lần Người muốn hòa ngang,
Thực dân đế quốc sài lang không dừng.
Người khôn ăn nói có chừng,
Kẻ tham chỉ muốn luật rừng nuốt tươi.
Gậy gai sau, cà rốt mồi,
2970.Đạn
bom nổ trước là loài bất nhân.
Với Tàu cộng, Cụ mang ân,
Nghĩa tình sau trước, nợ nần nói ra.
Trung cộng cướp trắng Hoàng Sa[21],
Cướp thêm quần đảo Gạc Ma[22]
của mình.
Tằm tơ nhiều đoạn rối tinh,
Tham tàn Hoa tộc mấy nghìn năm qua.
Đế Minh thông sử nước Nhà,
Những mong hai nước hài hoà sống vui.
Chia nhau một con bê thui,
2980.Trung
cộng đòi hết hai đùi lẹm vai,
Cố quên các bậc hiền tài,
Nước Nam có chủ, ly lai không nhường.
Tư tưởng xây dựng hậu phương,
Lần Ba Hội Đảng kỷ cương siết vào.
Dựng xây các loại phong trào,
Công nông binh trí trụ cao vũ đài.
Tăng tốc tiến tới bồng lai,
Các đệ tính chỉ một vài năm sau.
Công hữu hoá đặt lên đầu,
2990.Công
nghiệp nặng chế ra nhiều thép gang.
Hợp tác hoá khắp xóm làng,
Diệt hết tư hữu, thiên đàng hiện ra.
Quốc hữu phủ đến sâu xa,
Giồng rau, cắt tóc, nuôi gà quốc doanh.
Mười năm đánh trống cầm canh,
Miền Bắc được một, Nam giành đầy kho.
Hai miền cơm cháo đủ no,
Cả hai toan tính chơi trò đánh nhau.
Nhập đàn tuyển chọn con đầu,
3000.Thuộc
tính sinh học của trâu bò rừng.
[1] Lê Đức Thọ (1911 -1990) là chính khách Việt Nam, giữ chức Trưởng ban Tổ chức Trung ương, phụ trách nhân
sự của Đảng Cộng sản Việt Nam suốt một thời kỳ dài 1956-1982, trực tiếp phụ
trách đoàn ngoại giao Việt Nam đàm phán với Mỹ về Hiệp định Paris. Ông Thọ từng được trao tặng giải Nobel Hòa
bình cùng với cố vấn ngoại giao Mỹ ông Henry
Kissinger vào năm 1973, nhưng ông đã từ chối
nhận giải với lý do đất nước Việt Nam chưa thể có được hòa bình. Đó là giải Nobel duy nhất dành cho người Việt cho đến nay. Ông
Sáu Búa, Sáu Thọ là tên gọi thân mật đồng chí
Lê Đức Thọ ở miền Nam thời kỳ chiến tranh chống Pháp.
[2] Tố Hữu, (1920 - 2002) là một nhà
thơ tiêu biểu của thơ cách mạng Việt Nam, là một chính
khách quan trọng trong hệ thống chính trị Việt Nam như Ủy viên Bộ
Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
[3] Kẹo Cu đơ là một loại kẹo lạc (đậu phộng) đặc sản
của tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam. Kẹo được nấu từ mật mía, đường, mạch nha,
gừng có thêm lạc nhân và được đổ vào hai miếng bánh tráng khô nướng ép lại. Loại
kẹo này rất dẻo và dính, có thể thưởng thức cùng với nước trà xanh.
[4] Xã Hồng Tiến, huyện Khoái Châu, Hưng
Yên là nơi phát tích của dòng họ Hoàng ở thôn Vân Nội. Đây là dòng họ nổi tiếng
có truyền thống lịch sử lâu đời không chỉ vì sự nổi danh của 18 đời quận công
mà còn là quê hương của bà Hoàng Thị Loan, thân mẫu Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bà
Hoàng Thị Loan (1868-1901) là con gái của cụ Hoàng Xuân Đường ở làng Hoàng Trù
(Nam Đàn, Nghệ An). Theo gia phả họ Hoàng ở đây, cụ tổ của dòng họ Hoàng ở Nghệ
An là Hoàng Nghĩa Kiều (1540-1587), đời thứ 6 của dòng họ Hoàng là người làng
Vân Nội, xã Hồng Tiến, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
[5] Xứ Nghệ “địa
linh nhân kiệt” đã mấy trăm năm lưu truyền câu Sấm của Trạng Trình (Nguyễn Bỉnh
Khiêm), đến đầu thế kỷ XX thì trở thành sự thật: “Đụn Sơn phân giải/ Bò Đái thất
thanh/ Thủy đáo Lam thành/ Nam Đàn sinh thánh”. Nghĩa là “Núi Đụn phân đôi/
(khe) Bò Đái mất tiếng/ Nước (sông Lam) khoét vào núi Lam Thành/ (đất) Nam Đàn
sinh thánh”.
[6] Mùa Thu năm 1905, Phan Bội Châu lo việc tổ
chức thanh thiếu niên Việt Nam qua Nhật, cụ có ý muốn đưa Nguyễn Tất Thành sang
bên đó nhưng cậu không đi.
[7] Abraham Lincoln (1809-1865), là Tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ từ tháng
3 năm 1861 cho
đến khi bị ám sát vào tháng
4 năm 1865.
Lincoln thành công trong nỗ lực lãnh đạo đất nước vượt qua cuộc khủng hoảng hiến
pháp, quân sự, và đạo đức, cuộc Nội chiến Mỹ, duy trì chính quyền Liên bang,
đồng thời chấm dứt chế độ nô lệ, và hiện đại hóa nền kinh tế, tài chính của đất
nước. Sinh trưởng trong một gia đình nghèo ở vùng biên thùy phía Tây, kiến thức
Lincoln thu đạt được hầu hết là nhờ tự học.
[8] Đinh Tiên Hoàng ( 924 -
979), là vị hoàng đế sáng lập triều đại nhà Đinh, nước phong
kiến tập quyền đầu tiên, Đại Cồ Việt trong lịch sử Việt Nam. Ông
là người có công đánh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất giang sơn và trở
thành hoàng đế đầu tiên của Việt Nam sau thời phương Bắc đô hộ.
[9] Hàn
Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử,
(1912 - 1940) là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ
lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra “Trường thơ Loạn”. Hàn Mặc Tử cùng
với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời
ở Bình Định gọi là Bàn
thành tứ hữu, nghĩa là Bốn
người bạn ở thành Đồ Bàn.
[10] Năm 1946, biết tin
Chủ tịch Hồ Chí Minh là em trai mình, ngày 27/10/1946, Bà Nguyễn Thị Thanh
(1884 -tháng 3-1954) ra Hà Nội thăm em. Bà kể chuyện sau khi Hồ Chí Minh ký Hiệp
định sơ bộ Pháp Việt (6-3 -1946, tại số nhà 38 Lý Thái Tổ, Hà Nội), tạm ước Việt
- Pháp ngày 14/9/1946 ờ Paris, dân quê đốt ảnh Chủ tịch. Hồ Chí Minh nói “Bà
con là những người yêu nước” trước đó nói với quốc dân trên sóng Radio “Tôi xin
đồng bào cứ bình tĩnh. Tôi xin hứa với đồng bào rằng Hồ Chí Minh không phải là
người bán nước.”
Ngày 03/11/1946, ông Nguyễn Sinh Khiêm (1888- tháng 10/1950) là anh ruột ra Hà Nội thăm em
là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
[11] Lần thứ nhất: Ngày
16-6-1957. Lần thứ hai, sáng ngày 8/12/1961, Bác về xã Kim Liên nhưng một điều
bất ngờ không có trong kế hoạch là Bác bất ngờ về thăm làng Hoàng Trù - quê ngoại
trước. Người trò chuyện với những người bạn tuổi thơ, ôn lại kỷ niệm thời thơ ấu.
[12] John Fitzgerald Kennedy (1917 -1963), thường được gọi là Jack Kennedy hay JFK,
là một chính trị gia và Tổng
thống thứ 35 của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, tại nhiệm từ
năm 1961 - 1963. Sự kiện Kennedy bị ám sát vào ngày 22 -11 -1963 là một bước ngoặt trong lịch
sử nước Mỹ vào thập niên 1960. Đương thời, ông là người đào hoa.
[13] Fidel Alejandro Castro Ruz, phiên tiếng Việt Phi-đen Cát-xtơ-rô (1926 -2016)
là một nhà cách mạng và chính
trị gia người Cu ba, Thủ tướng Cu ba từ tháng
2 -1959 đến tháng
12 - 1976 và
sau đó là Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Cu ba đến
khi ông từ chức tháng 2 - 2008. Ông là Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Cu ba từ tháng 10 -1965 tới tháng 4 - 2011, em trai là ông Raúl Castro được kế nhiệm chức vụ này vào ngày 19 - 4 -2011 đến ngày 19 - 4 - 2021. Ông là người đương thời với những nhà lãnh đạo
nổi tiếng như Che Guevara, Hồ Chí Minh, Nelson Mandela,…Ngày 15-9 -1973, giữa lúc cuộc Chiến tranh Việt
Nam đang diễn ra, ông đã đến vùng giải phóng
thị xã Đông Hà, Quảng Trị, cổ vũ cuộc kháng chiến chống Mỹ.
[14] Tàu Granma dài 18 mét.
Ngày 2- 12 -1956, Fidel trong 80 người trở lại Cuba sau khi đổ bộ lên miền Đông, họ bị bao vây bởi quân
chính phủ Batista. Một trận đánh ác liệt
diễn ra, nhóm cách mạng chỉ còn 12 người sống sót và rút vào vùng rừng núi
Sierra Maestra để tổ chức kháng chiến. Nhóm kháng chiến được quần chúng ủng hộ
và phát triển lên đến 800 người. Trong suốt 2 năm, họ áp dụng chiến
thuật đánh du kích gây nhiều thiệt hại cho
quân chính phủ. Ngày 1-1 -1959, quân đội của Fidel Castro tiến vào thủ đô La
Havana,
[15] Giang Thanh (1914-1991) là người vợ thứ
tư của Mao Trạch Đông (kết hôn ở Diên An năm 1938). Bà là một người của Tứ nhân bang (bè lũ bốn tên) trong Cách
mạng Văn hóa ở Trung Quốc thập kỷ 60 thế kỷ 20. Khi
đang ở đỉnh cao quyền lực, Giang Thanh từng phê chuẩn lệnh bắt nhiều đảng viên
cộng sản vu là phản cách mạng, thậm chí cả đầu bếp và người giúp việc của họ
cũng không thoát.
[16] Bà L.Th.Ph.M, cán bộ cao cấp của Bộ LT-TP
nói: "Không ai nói với tôi là có ý định giới thiệu với Bác nhưng đúng là
có bố trí để tôi tiếp cận. Nhưng vì tôi trẻ quá, nên ngay từ những ngày đầu gặp
Bác, Bác đã gọi tôi bằng cháu". Chồng bà là ông Tr.Đ, nguyên Viện trưởng
Viện KHH, UBKHNN.
[17] Ông Đào Chú (1908-1969), Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc)
cũng là một người bạn thân thiết của cụ Hồ, quan tâm đến hạnh phúc riêng tư của
bạn.
[18] Mùa Xuân năm 1950, sau 5 năm Kháng chiến chống Pháp, Việt Nam đã giành
nhiều thắng lợi. Trung Quốc, Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân công nhận và
đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Góp phần
quyết định vào thắng lợi đó, là chuyến công du bí mật sang Trung Quốc và Liên
Xô của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
[19] Nguyễn Thị Năm (1906 -1953),
quê ở Làng Bưởi, ngoại thành Hà Nội, là một địa chủ có công đóng
góp tài sản cho Việt Minh trong kháng chiến chống Pháp. Trong cuộc Cải
cách ruộng đất, bà bị nông dân địa phương đấu tố là địa chủ gian ác và bị xử bắn.
Bà nguyên là Hội trưởng Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tỉnh Thái
Nguyên. Nhiều nhân chứng viết hồi ký đều ghi nhận sự phản ứng quyết liệt của Hồ
Chí Minh khi nghe báo cáo về vụ việc bà Năm.
[20] Trần Dụ Châu (1906-1950), Đại tá Quân đội
nhân dân Việt Nam, nguyên Cục trưởng Cục Quân nhu (tiền thân của Tổng cục Cung
cấp, nay là Tổng cục Hậu cần, Quân đội nhân dân Việt Nam); bị tử hình
trong vụ án tham nhũng nổi tiếng năm 1950 trong Chiến tranh Đông Dương.
[21] Hải chiến Hoàng Sa là một trận
chiến giữa Hải quân Việt Nam Cộng hòa và Hải quân Trung Quốc xảy
ra vào ngày 19-1- 1974 trên quần đảo Hoàng Sa khi cả hai
phía đều tuyên bố có chủ quyền ở quần đảo này. Trung Quốc chiếm quần
đảo Hoàng Sa sau đó.
[22] Ngày 14-3-1988, Hải quân Trung Quốc tấn công vũ trang hòng
chiếm đóng bãi đá Cô Lin, bãi đá Len Đao và bãi đá Gạc Ma
thuộc Quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam, Hải quân Nhân dân Việt
Nam đang bảo vệ và xây dựng công
trình trên các đảo. Sau đó Trung Quốc chiếm đảo Gạc Ma và xây dựng nhiều công
trình quân sự.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét