Thứ Bảy, 19 tháng 10, 2013

Cựu tổng trấn gửi Chiêu Hổ


Thưa thổ quan, miệng hùm, gan sứa!
Tôi lấy làm xúc động có người bạn cũ lên tiếng trách oán tôi, không bù cho bạn của chúng ta kiếm ăn bản xa, phố gần đến nhà tôi nhờ cậy mấy vụ mua bán, đầu tư để rửa những rổ sề vàng bạc trấn lột ở đâu đó. Tôi làm tất cả những gì để giúp bạn bè hạ cánh nhàn tản với Kinh Thành thơ mộng của chúng ta. Quan Chiêu mắc bệnh sỹ khổ tâm lắm lắm vì lòng ham sướng trong mỗi người là ngang nhau! Ông hãy từ tâm với tôi và nhiều tội lỗi rồi những ngày hồi Kinh ông sẽ hiều thế nào là đạo lý.

Quan nhất thời, trên tôi và bên tôi còn bao nhiêu giàng buộc, quyền lực của tôi do dân và nhiều người định đoạt, tôi chưa làm điều ác với dân, ông nên phân biệt của nhà nước và của dân. Họ hàng nhà tôi và những người dân thân thiết, tôi có trách nhiệm nâng đỡ, chăm lo.

Đối với dân thường tôi đã làm nhiều việc khi sự đã rồi, bà ve chai, đám cái bang, kẻ muốn hoàn lương ngụ đâu tôi cấp đất cho họ khiến nhiều công thần, lương dân không hài lòng!

Đối với các công thần cần thái ấp, đền miếu tôi cũng cấp, còn gì đãi ngộ hơn là đất, đất có ăn được đâu!

Những người không được phần đất đẫy đà là do họ không chịu theo quan Chiêu chạy đến những chỗ đất còn rộng, báu gì thị thành chật hẹp, hà hít gió bụi.

Cảm ơn ông có nhã ý cho tôi thuê nhà, cái tôi cần không phải là những ngôi nhà mà quan Chiêu nhắc đến, cái tôi muốn là nô giỡn với cuộc đời.

Những vụ cổ phần, đúng là có, cổ phiếu chỉ là giấy, người ta cần tôi tham gia để vững tâm khi làm ăn với ngoại quốc, tôi sẽ phân phát và thừa kế cổ phiếu cho những người trẻ tuổi có chí bang giao kinh tế với nước ngoài.

Tôi trân trọng đồng đội chúng ta đã chiến đấu hy sinh, tôi không làm, ăn những gì để hổ thẹn với vong linh. Buồn cho quan Chiêu xa lánh Kinh thành những năm kiến thiết xây dựng. Ông đã chốn chúa ra ở chùa. Không ngờ một người gác bút nghiên vác giáo xung trận lại bỏ Kinh thành tìm nơi thâm sơn nhàn tản, trang trại non cao ông trồng cây anh túc, ông hãy phá hết ngay, kẻo vô tình phạm tội đầu độc. Nhiều quốc gia đã có thư kiến nghị phá bỏ trại cây nghiện của ông.

Quan Chiêu thân mến, chúng ta có chung tình yêu đất nước, Kinh thành, có cùng tháng năm tuổi trẻ oai hùng, tôi chưa vác giáo trực diện với ngoại xâm nhưng đã vác gậy đánh đuổi những kẻ dã tâm hành thích tướng tá, hoàng thân há chẳng phải là có công cứu mạng!

Tôi có qua Cổ nguyệt lầu gặp nữ sỹ XH, người tình của thập loại quan nha, thập loại chúng sinh. Đôi lần nhắc đến CH, nàng lắc đầu buồn cho ông yếm thế tránh gió bụi Kinh thành, cầu an hưởng lạc nơi thâm sơn.

Có lẽ chúng ta không nên bàn đạo đức quan trường nữa bởi khi đã mũ cao, áo dài thì trong mắt chúng dân chúng ta đã là sâu mọt do chính họ dựng lên, nhưng trên công đường vẫn được coi ngang cha mẹ của dân. Lá trầu có hai mặt, quả cau có cuống có trôn, người có có rốn, chỉ mong những người dân hiền lành chăm chỉ làm ăn trong tự do không bờ bến, trong buôn bán với ngoại bang hơn là dằn vặt nhau nắm đất khô cằn, đồng tiền còm cõi cho người này quên người kia.

Mỗi người có cách để lại cho đời một đôi thứ, XH và CH đã thành danh bên Hồ đôi ba giai thoại, thì NVH này cũng phải để lại ân huệ, của cải cho càng nhiều người càng tốt, cái ân huệ mà NVH nhặt chỗ này đặt vào chỗ kia như bốc thuốc, chơi cờ ấy mà.

Mến, hẹn này nhậu cùng XH và bạn bè bên Cổ nguyệt Lầu, rượu, trăng, sóng nước, mắt người đẹp sẽ hoà tan hết ưu tư.

Vụ gian điểm, ông nên gặp quan chủ khảo kỳ thi đó, người ta dâng điểm cho tôi có ngụ ý lấy thành tích, cổ vũ sự học, để nói với lân bang rằng người nam có quan trạng. Cả khoá được cộng thêm điểm để bù đắp thiếu hụt các chức quan trong ngày đầu kiến thiết quốc gia. 

Sẵn sàng giúp đỡ ông bằng quyền huynh  các quan chức đương nhiệm.
Kính quan Chiêu
Đồng khoa
NVH

=>Cổ nguyệt lầu ngày sầu muộn (Xuân Hương gửi các quan anh)

Chiêu Hổ gửi cựu Tổng trấn Bắc Thành


Năm GL thứ ….
Thân gửi cựu Tổng trấn Bắc Thành NVH.

Tôi ngược biên ải để tránh vạ tham nhũng Kinh thành, nơi mà tiền nhân biết cảnh “nhao nhao như chào mào ăn quả xoan” của những kẻ dưới trướng ông lộng quyền vơ vét của dân bằng mánh khoé nghề quan.

Thưa Tổng trấn, cũng may là cụ thân sinh ra tôi đã được Hoàng Thượng để mắt tới trong những trận nội chiến mà cha tôi có bổn phận chữa trị người bị đau. Đám người thắng trận đói rét, bệnh tật đã được cha tôi bắt mạch kê đơn thuốc Nam, trộn thuốc Bắc mà hồi xuân, sung sướng hưởng  thái bình.

Cha tôi được ở nhà gần Hoàng Thành để thăm bệnh các khai quốc công thần, ngôi nhà ấy của đám vương triều Lê-Trịnh mạt vận. Nhất điền, thiên vạn chủ, biết thế nhưng cha tôi đã hợp thức hoá  có “khoán bằng thổ”. Xong.

Theo thời gian và năm tháng, ông chưa phải là tiền quân của Hoàng Thượng những ngày xuôi ngược Bắc Nam nên ông chỉ được ở những nhà công do Kinh Thành quản lý, nhà công cho quan Tổng trấn đẹp lắm, 1000 năm nghiêng bóng xuống Kinh Thành. Ông quá hiểu điều đó nhưng vẫn cố tình đòi hưởng chế độ của những người cầm đuốc cho cha tôi mổ xẻ vết thương quân quan, đưa thuốc trường sinh vào miệng Hoàng thân quốc thích!

Kinh thành thịnh vượng, công của muôn dân, ông đã có phần ở những phong bao lễ lạt, hàng trăm thái ấp,nhà cửa chia cho quân dân ông đều có phần đứng danh họ hàng, sau đó ông cho chuyển nhượng vẫn chưa thoả lòng tham ư? Kể ra của cải ông có so với ngôi nhà cha tôi đang ở quả là xa, ông không muốn “áo gấm đi đêm” thưa cựu Tổng trấn.

Những cổ phần khống-nước bọt của ông ở các nhà sản xuất, nhà buôn khá đẫy nhưng thanh khoản ra vàng rất khó vào lúc ông đã hưu, vả lại ông muốn ăn dày nên không muốn chuyển nhượng lúa non như mấy đứa con công thần mượn uy danh cha chú đã từng làm từ nam ra bắc.

Ông có thể mua được nhiều thứ từ những đồng tiền tội lỗi (ông đã mạo làm sắc phong cho kẻ thù của vua), ông sẽ trơ trẽn khi ở những toà nhà như cha tôi dù có “bằng khoán thổ” mua bằng tiền tươi thóc thật của ông. Dân chúng và vua sẽ nhìn ông như một tội phạm của đất nước. Gã quan coi đúc tiền đã có nhà cao ngõ rộng lại chiếm nhà bảo vệ của xưởng đúc tiền để cho bọn lái ngân thuê, gã đang sống trong sự kinh thường của dân chúng, sự xoi mói của các bô lão. Ông đã hay, gã đó có thể trơ mặt còn ông thì không muốn. Dù sao ông cũng được mệnh danh là kẻ sỹ Bắc hà!

Thưa Tổng trấn nhiều chữ! Tôi ngược non cao coi dân an bờ cõi, ngoài lương bổng và tiền dưỡng liêm tôi cũng biết lập trang trại, thái ấp trồng cây quý, nuôi vật hay bán thu không ít lời, bạn tôi và các tri châu cũng biết tiết kiệm của nhà nước trợ cấp cho dân để mua nhà ở Kinh thành cho con đi học, hưu dưỡng thân già. Một gã tri châu xuýt ngất khi thấy cả đời kiếm chác, bon đua không bằng số tiền chênh lệch sau nửa giáp bán biệt thự thứ hai ở ngoại thành mà gã mua hú hoạ đất của bọn quan cò mối dưới trướng ông.

Tôi sẽ về Kinh thành, 15 năm mạn ngược quy đổi tôi sẽ được hưu sớm 7 năm. Tôi có nghề thuốc gia truyền, thêm thang thuốc “hồi xuân, dửng mỡ” mà nữ sĩ Xuân Hương học lỏm sau rỉ tai tôi cùng với các bài thuốc bí truyền mà thày lang thuốc nam mạn ngược cho tôi có thể giúp tôi kiếm thêm những toà dinh thự của những kẻ đầu cơ rửa tiền.

Một con bệnh giàu ham sống, chi tiền thuốc có thể bằng cả một châu phủ thường dân đau ốm, thuốc thang! Thế đấy thưa Tổng trấn, thấu đạo lý ngày chúng ta đi học môn “minh triết phương Đông” có câu “trăm dâu đổ đầu tằm (dân) và một tướng công thành vạn xác (lính) khô”. Nếu con bệnh thầu dầu của CH có “bòn nơi (dân) áo ráchđãi lương y áo dài cũng là chuyện bình thường. Tất nhiên CH để các vị tuỳ tâm như cha CH ngày trước, chẳng phải là từ mẫu mà là người vững tâm.

Ngày ấy, cha CH chữa bệnh cho quan lớn, được hậu tạ, ông sợ quá, không ngờ quân quan tốt với  lương y, ông tìm cách bất tận hưởng, sau này CH hỏi sao cha không bảo quân quan tăng phát chẩn cho dân nghèo, cung tiến chùa chân tu. Cha CH nói: “cha chữa bệnh cứu người, mạng người vào tay cha như nhau, chỉ có điều cha không có sức đi đến nhiều nơi để trị bệnh, mà vua thì chưa muốn xây đại y xá. Con có giỏi thì học làm quan dạy đạo đức cho muôn người”

Nếu ông có nhu cầu hưởng thụ, tôi sẽ cho ông thuê nhà của cha tôi với giá bình dân như ông đang thuê nhà của công, để phần đời hưu của ông hạnh phúc và tiền bạc ông để cho con ông lập làng ấp cách Kinh Thành 8-12 con dao quăng, làng đó lấy tên ông và con ông, 1000 năm sau cha con là Thành hoàng.

Lần đầu và cuối nhắc nhỏ chuyện xưa: ông nhiều chữ hơn tôi nhưng khi đi thi ông gian dối lấy điểm cao, được quan trên nâng đỡ. Ngày vào quân ngũ ông khéo hầu mấy tướng cờ bạc, rượu chè, gái mú nên được ở hậu phương chi viện cho tiền phương. Bạn chúng ta hôm nao ngã xuống, thân xác nối lại hơn tổng chiều dài các nẻo đường chiến tranh, đâu có được mái nhà bằng tập vở.

Chia sẻ cùng ông, chúng ta cùng sẻ chia của cải cho dân bằng những dự án doanh nghiệp cộng đồng!
Bạn cũ.
Chiêu Hổ

->Thưa thổ quan, miệng hùm, gan sứa! (Cựu tổng trấn gửi Chiệu Hổ)

Lầu Cổ nguyệt phía Tây (Xuân Hương gửi CH)


CH thân mến,

Trong mắt XH đọng lại hình ảnh chàng vác giáo, thắt bao dao găm đi với ba quân làm nghĩa vụ trai thời loạn. Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi! CH trở về để lại bao chiến binh bạn chàng và kẻ thù nơi rừng xanh núi thẳm,bờ bãi oan hồn. Chàng cùng đoàn quân chiến thắng xuôi về Kinh thành đắp gò Đống, thống nhất giang sơn. Gái thời bình, chia phần đâu có dễ, sao chàng không tính sổ công danh để leo lên hàng Tổng trấn thành. Mà không, công chàng còn nhỏ so với bọn Chỉnh, Nhậm, Thường,… mà không, chàng quá hiểu thuở thái bình “cán giáo nấu cẩu tơ”.

Văn miếu xưa có nhiều sỹ tử, thi nhân coi chuông và uông là một, khoá chàng thi tác tộ, cũng bằng đầu. Học làm chi, cứ bổ làm quan sau bổ túc; quan tư nghiệp vẽ vời nghi lễ để chiều vua. Chả thế mà một vài dòng bia bị đứa nào xoá tên khi mồ quan nha chưa xanh cỏ.

Lần thứ tư chàng xa Kinh thành về nơi xuyên sơn vỗ về người thiểu số, giữ hoà hiếu, an bình bờ cõi nước ta. Chàng đã dâng lên triều luật 531, 431, 02,… với tấm lòng yêu nước thương dân nghèo. Ngân khố nhà vua- tiền thuế của dân theo đường thượng đạo, xuyên sơn đến bản xa  phải qua tay chàng đến hào mục, phìa tạo, dân được  bao nhiêu chắc chàng hay?

Gáo nước trong đổ qua lòng tham cháy cổ, xòng nải nào gặm thấm hết của dân?

Đã non nửa giáp, mưa móc nơi nóc nhà quan Chiêu bạc vàng loá ánh sao đêm. Chàng mũ cao áo dài uý lạo dân đen, chiến sỹ đồng quà tấm bánh được quan Kinh thành tuần du khen nức nở, chàng định mua dân bằng tình thương thì người ta đã mượn dân để tiêu tiền quốc khố. Thập niên, chàng mãn hạn quan xa về Kinh Thành tha hồ sung sướng.

CH ơi, hôm đám hào mục về Kinh hội họp, Phường Khán Xuân cháy chợ cô đào. XH hoà vào đám hầu hát bài ca thời thượng, những đồng xèng thực khách ném leng keng. Trong đám hầu có cô Tầm (tên cha mẹ đặt là Tàm) nhận ra quan Trứ  ngả giang sơn giữa đồng, ứ hự chẳng vừa môi; một cô Cầm (Cấm) nữa nhận ra bạn thơ xưa mà nay thi hào cố tình không biết, Chiêu hôm đó mơ hồn không hay mặt XH.

Lá trầu xanh rồi héo, bình vôi trắng rồi ngà, nước thời gian trôi, vật đổi sao dời, ngôi vị tượng cẩu.
Khi chàng vác giáo ra đi, mẹ cha chàng lo con mình tử trận, lo tính tàn bạo thời chiến và tôi trung ập vào chàng và đồng bạn để rồi sự thảm khốc đối với kẻ thù lúc giao tranh là không giới hạn! Điều đó đã làm chúng ta chiến thắng. Trầm tích rêu phong, tâm tính quá đà, bạn chàng đã bêu đầu nơi chợ Kinh sư bởi lưỡi gươm của đại quan tham Tổng trấn thành. XH sợ chàng!

Thương một thế hệ binh đao dài dẵng, tuổi trẻ trung tươi đẹp đi qua tàn ác rồi bước vào đời quan trường nhũng nhiễu. Tình yêu lớn lao đã nhoè đi tình nhỏ, chàng miễn cưỡng chối từ cô gái Kinh thành gia giáo nuôi cơm chàng những ngày học thi, để cầu vinh?

CH thân mến, XH muốn hỏi điều này, nếu đúng thì chàng không trả lời, nếu XH biết mình sai sẽ đốt Cổ nguyệt lầu chọn kiếp tu hành: Đúng là của cải vua ban cho dân, của dân nộp quốc khố, cung tiến vua (kể cả gái đẹp, sơn hào) CH đã nếm, đã lùa vào chum vại nhà mình,… để rồi bí mật ôm đi bỏ vô chùa do một sư nữ trông coi những phế nhân lớn bé dạt về. Cái gì bắt chàng làm như thế, làm như thế thì kẻ cướp đã từng, và nhỡ mệnh hệ gì… thì những chum vàng,vại bạc kia không ai biết, đất ôm vào, ôm mãi chằng ai hay.

Thân mến chào CH.
Hẹn ngày chàng ghé thăm tệ xá, thưởng nguyệt Tây Hồ.

Lũng Cú, ngày thu năm AD (Chiêu Hổ gửi Xuân Hương)


Lũng Cú, ngày thu năm AD
Xuân Hương thân mến!

Từ Lũng Cú (Long Cổ- Cổ Rồng) điểm cực Bắc xa xôi của Đất Việt, Chiêu Hổ viết về nàng, về Thăng Long thành hoài vọng, về kỷ niệm ngày Chiêu về Kinh.

Cuốc xe ngựa xuôi nam qua rừng trám, rừng lim xanh, lát hoa bạt ngàn, hạt dẻ nâu lạo xạo cùng lục lạc vó ngựa bánh xe quay. Quà cho Kinh thành những bao hạt dẻ bùi thơm để mọi người nhớ về vùng cao biên giới.

Mẹ, gia đình, bạn bè và quan tổng trấn thành vui khi Chiêu Hổ về mang về niềm vui bờ cõi yên bình, chúng dân chăm chỉ làm ăn, đầu luôn hướng về Thăng Long với những người anh em cùng bào thai, máu mẹ. Quà măng, hạt dẻ, trám, lê ngọt bùi nỗi nhớ người đi xa. Quan tổng trấn gợi ý Chiêu Hổ về Kinh thành, làm phò mã, và được thăng thêm một, hai chức quan. Có thể vào Văn miếu soạn sách, dạy học hoặc chức quan hộ thành để rộng đường lên làm phó tổng trấn thành, dần dần thay bố vợ. Nhã ý đẹp, dưng con gái quan tổng trấn không xinh đẹp, tài hoa bằng một phần mươi những cô hầu ở lầu Cổ nguyệt. Chiêu đa tạ, trở về Lũng Cú làm bổn phận quan thổ ty xứ mờ. Bố, mẹ Chiêu không buồn, bởi ông bà chẳng thích thông gia với nhà quan tham đầy tai tiếng đất Kinh thành.

Xuân Hương thân mến!
Ấn tượng đẹp ngày về phép của Chiêu là những cuốc xe trên Kinh thành mùa thu đang chín, những sáng mờ hơi sương bên Tây Hồ nghe tiếng gõ cạp thuyền vờn cá, đuổi chim, tiếng rao quà bánh, gánh hàng hoa tươi,… và nàng đã giành cho Chiêu cả buổi chiều thu mơ mộng.
Chúng mình đẹp trong mắt nhau. Chiêu rũ bụi đường xa, xén tóc, cạo râu mặc bộ đồ thư sinh ngày đăng khoa cử nhân xuất sắc năm thi đầu tiên sau những ngày đất nước binh đao. Bộ đồ ấy nàng đã chọn cho Chiêu làm món quà tri âm, tri kỷ hơn là quà đãi ngộ tình yêu. Đáp lại tấm lòng, Chiêu đã tặng nàng vòng đeo cổ. Chiếc vòng bạc trắng tinh mà sư chùa Bát Tháp tặng Chiêu, sư nói: Nếu con chọn được cô gái nào đeo vòng ắt sẽ hộ mệnh đời con. Nàng đã vòng lên cổ hộ mệnh đời Chiêu trọn kiếp người.
Kỷ niệm trưng ra, chúng mình về phía xa Kinh thành bên Tây Hồ, quán ‘‘‘ông già bến cá’’ Sao thế! Lớn rồi mà nàng nhìn Chiêu thẹn thùng như con gái 15 lần đầu gặp trai 18? Chiêu xao xuyến một thời đèn sách, một lần đỡ người bạn gái té ngã ở sân trường, lấm váy rách ống tay áo mà nàng chữa thẹn : “giơ tay với thử trời cao thấp, xoặc cẳng (Chiêu nhác thấy chân thon) đo xem đất vắn dài!” Chiêu yêu nàng từ thuở ấy!
Muốn xe ngựa chậm hơn, dài xa kinh thành nhưng rồi vẫn đến. Chúng mình bên nhau hướng về Tây Hồ. Nàng không để Chiêu một mình nhìn sóng nước, nàng mạnh mẽ hơn thơ, nàng đã ngồi bên tay Chiêu để cùng hướng về khoảng không bao la, nhìn vào mắt nhau phải quay cái cổ trắng long lanh vòng bạc, nàng nhắc về tình tuổi thơ.
Ốc nhồi của Tây Hồ om thuốc bắc, nàng khêu mời chàng Chiêu, vị thơm tình yêu của đất, tình của lá cỏ cây,(lá chanh thơm Chiêu đòi thơm nữa), của ‘‘bác mẹ sinh em phận ốc nhồi’’. Chiêu ăn đến đâu, nàng ngoáy khêu đến đó, Chiêu muốn mó vào nhưng chẳng quen tay! Rượu hương nồng, nàng nóng mặt, nóng người, đã cởi áo choàng để lộ ra yếm thắm. Đời Chiêu trận mạc, núi cao rừng sâu mà sao vẫn run người trước ‘‘non bồng, tiên đảo’’ bên dòng suối-cánh tay trắng ngần của nàng?
Kinh thành, hà thành hoa lệ kiêu sa là Nàng, để người không muốn rời xa đất thánh, để người đi nhớ về ‘‘bến Thắm xuân xanh’’. Giá như tổng trấn thành không mặc cả quan-tình, cho Chiêu về làm chức nha nhỏ kinh sư, để Chiêu bên nàng những chiều thu đẹp như hôm nay thì,... đời đâu cay nghiệt.
Con cá quả nướng vàng, nàng mời nàng gỡ, nhưng lần này Chiêu cuốn bánh đa sành điệu đặt vào môi nàng, để ngắm soi ánh mắt long lanh tình người con gái tài hoa nghiêng sắc Kinh thành.
Chỉ có đôi ta đắm say chiều thu xứ sở, chỉ có tình ta đặt vào trong nhau, không phải đặt những câu thơ ám chỉ cuộc đời nhàm. Chiêu không thích nàng viết những bài thơ ong đốt, muốn nàng thể hiện những bà thơ ngợi ca tình yêu bất tử, tụng Tây Hồ xinh đẹp, sóng nước mênh mang.
Nàng chuyện về tuổi thơ, ngày mình đến trường qua những mùa phượng nở, mùa xuân hoa thắm, mùa mưa trú ở bên mái chùa Trấn quốc, ngó tượng đồng đen Quan Thánh, nàng vừa sợ vừa xinh. Kinh thành không có ai để nàng yêu, để nàng đặt cuộc đời xuân xanh đang ngả bóng? Chiêu đã mến nàng, yêu tài sắc hương tình của nàng nhưng lễ giáo quan trường, mặc cảm của gia đình về người con gái đã một hai đời chồng mà nàng chẳng được chung chăn!
Ra đi, lần sau trở về vẫn mong gặp nàng!
Lũng Cú mùa thu, cốm thơm, hương mật mía ngọt ngào thổi về Kinh thành qua từng cơn gió. Gửi nàng bức thư bày tỏ tâm tình một người ngưỡng mộ, kính mến Xuân Hương!

CH

=>Lầu Cổ nguyệt  phía Tây (Xuân Hương gửi CH)