Chủ Nhật, 16 tháng 2, 2014

Thư gửi anh Quế (tưởng nhớ ngày 17-2-1979)



Anh Quế thân mến!

Em vẫn hỏi thăm những người bạn đã đến thăm anh, biết anh chị và các cháu mạnh khỏe, năm 2000 anh làm nhà, mọi điều tốt đẹp đến với anh. Không rõ tướng Nam Khánh giúp anh những gì, anh vẫn nhìn Thủ trưởng như ngày khoác AK đi với chính ủy NK dằng dặc khúc ruột miền Trung (QK 5)

Hai mươi ba năm nay em chưa viết thư cho những người bạn lính nhưng chúng em vẫn gặp nhau vào một ngày quy ước. Nay em lẩn thẩn viết cho anh trên Nét, không hy vọng anh nhận được, em muốn phần nào giải thoát những ám ảnh của một thời cầm súng, muốn nhắc nhớ kỷ niệm và cũng muốn chia sẻ với "khách hàng" của mạng.

Những gương mặt đồng đội thân yêu và đau khổ vẫn chập chờn trong ký ức, có lúc về trong mơ khiến em sợ. Mấy năm nay em ít mơ nhớ về 20 năm trước có lẽ thời gian đã xóa đi, làm cho ký ức màu trắng.

Những giấc mơ súng đạn, những cuộc săn đuổi và trốn chạy, những bóng đen trước mũi súng, bóng người trong đêm là một sự thực trong mơ anh Quế ạ . Em bị ám ảnh nhất hình ảnh đang học rồi có giấy gọi vào quân ngũ. Có lẽ đó là một điều nghiệt ngã và oan trái của chiến tranh đã hiện hình trong tâm trí lúc lặng yên giấc ngủ. Nó đeo bám em, nhiều đêm giật mình xem có phải tạm biệt mái trường lần nữa không. Thực tế số phận em đã được định đoạt từ ngày giã từ tuổi thơ, mái trường  thân yêu với bao bè bạn, ước mơ.

***
Tháng 2- 1979, anh về Tết, sáng 17 như mọi ngày anh em nhắc nhau đi trồng sắn thì súng nổ, đơn vị bị bất ngờ trước hành động ăn cướp của bên kia. Cuộc đối đầu bất đắc dĩ của lịch sử đã diễn ra, chúng em vào vị trí đã định và các chiến sỹ chúng ta đã chiến đấu anh dũng, em đi theo đội hình  đại đội 3 khoác chiếc máy vô tuyến 2W. PRC 25 chiến lợi phẩm trong kháng chiến chống Mỹ. Mệnh lệnh giữ chốt, số thương vong, tình hình phía địch truyền đi theo mật khẩu toàn bằng số.

Giặc quái lắm anh ạ, chúng đi vòng phía sau theo thung lũng, súng bộ binh vô tác dụng, hai bên chưa dùng pháo binh sợ bắn nhầm. Chẳng bên nào muốn thương vong ngay trận đầu nên đều thận trọng, tiểu đoàn vẫn vững trận địa nhưng giặc đã tràn khắp nơi theo chiến thuật biển người vào sâu lãnh thổ. Trong đội hình giặc có nhiều thằng không súng, đi tay không, đi hôi của, chúng ưu tiên lấy thứ ăn được như bắt lợn, lấy lương thực, cướp cả áo quần, nhiều thằng giặc lúc chết trong túi còn củ khoai, miệng nhá khoai sống trắng bã.

Một ngày trôi qua chưa mấy thương vong. Địch chiếm được một vài điểm cao, gần trận địa ta. Đồi núi nhiều làm sao tiểu đoàn mình đủ quân chốt chặn.

Ngày 19 tiểu đoàn vận động tấn công ban đêm, được anh em đánh giá đó là trận đẹp nhất, đạn bắn mưa sao băng, hỏa lực mạnh yểm trợ. Giặc rút nhanh để tránh thương vong,  anh em mình chiếm lại đồi Thâm Mô- Chậu Cảnh.

Sáng 19 anh trả phép, về đơn vị trong tiếng hô tin cậy của anh em, từ trận đó anh em đặt anh biệt danh "thần chiến tranh" anh đã thể hiện bài bản của người lính chống Mỹ, người chỉ huy đại đội dũng cảm, mưu trí đưa anh em vào đội hình chặn giặc, đợi chúng đến đúng tầm đạn mới đồng loạt nổ súng. Có anh, người lính vững tâm, lính trẻ reo hò khi anh biểu diễn bắn súng M79 (loại cối cá nhân của Mỹ, đạn nhỏ như quả lêkima mà sát thương khủng khiếp bởi vô số viên bi trong đó.) Anh nâng súng theo tầm tay và "cóc" chính xác vào đám xâm lược ẩn náu ven đồi.

                               Vùng tác chiến của Sư đoàn 3
 Ngày 20 hai bên giằng co thử sức "trâu bò"
Ngày 21 địch đánh lấn và vòng sâu vào bản nhà dân bắt một số người không kịp chạy, chúng bỏ qua một số vị trí chốt chặn của tiểu đoàn, chúng lì lợm tiến sâu vào lãnh thổ. Đêm đó, những tên lính xâm lược đã rõ địa hình ban ngày, chúng mò mẫm vào hầm hào C1, vào hầm chỉ huy C1 .Thằng Cường người Từ Liêm là liên lạc C1 đã kịp hạ một thằng to vật vã. Cường  bảo: "đến lượt tôi gác, thấy một bóng đen to đùng tụt xuống hào ngay mũi súng, tôi xỉa luôn, hôm đó không kịp thì tôi sẽ bị nó xỉa và hầm chỉ huy đại đội ăn vài trái bộc phá" .Tuấn gạo Từ Liêm chiếm vị trí chắc chắn, di chuyển liên tục, bắn rất nhiều nhưng địch chỉ  bị thương phải kéo nhau chạy.

Ngày 22 suốt đêm địch bắn pháo dữ dội vào các chốt, có lẽ đó là ngày đau thương. Trong chiến trận biên giới, tiểu đoàn mình chịu thiệt hại nhiều nhất ngày hôm đó. Chúng em dưới hầm, rồi chuyển vào địa đạo (hầm to trong núi). Thằng Bình chứng kiến chùm H12 của giặc bắn nát đồi và nó bị thương, thoát chết nhờ chiếc dây lưng bị mảnh pháo làm đứt rồi chạm cột sống; thằng "Minh đen" chuyển thành Minh sứt là do một viên đạn thẳng lướt qua môi, miệng xưng vù nói ngọng; anh Vỳ tiểu đoàn phó thấy ba lô ướt đẫm, thì ra viên đạn đã thâu qua vài hộp thịt cá và mắc lại ở một hộp. Cái ba lô sau lưng đã dụ con mắt, viên đạn thằng giặc chui vào.

Rất nhiều hình ảnh anh dũng của chiến sỹ ta. Thằng Sướng Quảng Ninh chỉ huy tiểu đội cối 60, bắn hết đạn vào quân thù rồi bỏ về phía sau, tiểu đội đại liên của C3, C2 đã chặn đứng đoàn xe giặc ở ga Tam Lung trong nửa buổi sáng. Tại vị trí đặt đại liên ấy, tháng sau là một nghĩa trang nhỏ có vài chục nấm mồ chiến sỹ, dân chúng nữa.




Ngày 23-27 chúng ta vừa đánh vừa rút, súng đạn vơi, đội hình mỏng trên 14 km quốc lộ từ Đồng Đăng về thị xã Lạng Sơn, giặc đi như vào chỗ không người.

Ngày 27 có lẽ là giặc thể hiện tối đa hỏa lực pháo binh tầm xa. Chúng bắn trước, bắn sau chia cắt đội hình ta. Anh em mình phải lui để cho tuyến sau lên thay thế. Một mặt trận nhiều thứ quân giăng bên sông Kỳ Cùng, sư đoàn 337 (Khánh Khê đã tiến lên), người lui kẻ tiến, khỏe dìu bị thương, chết chôn vội, nhiều anh em bị kẹp giữa đành gặm mía còn sót lại sang xuân mà sống cho đến đầu tháng 3. Tiểu đoàn mình có hai chiến sỹ bị giặc bắt, tháng 6 được trao trả, thằng K Hải Hưng về qua nghĩa trang nhổ bia ghi tên nó, thằng T bị thương và bị bắt rất căm phẫn bởi giặc đối xử tàn bạo. Chúng trói kéo người bị thương, về bên biên giới đám thường dân định xông vào đánh, chúng giam ở trại chăn nuôi, đang ăn thì chúng rửa chuồng trại!

Đầu tháng 3 bên kia cũng tuyên bố rút nhưng chúng rút chậm. Lực lượng phía sau của ta mạnh lắm.Khi về Ba Xã, ở trong nhà vắng chủ nhìn ra thấy đội hình xe tăng, pháo binh mình tiến lên mạnh mẽ, di chuyển nhanh để tránh bọn gian, bọn biệt kích giả dân gọi pháo địch.

7-3  lúc nhà báo Nhật bị bắn lén chết tại ngã tư trên phố LS. Lúc đó chúng em đi thu dây thông tin. Một thị xã hoang tàn, những tòa nhà bị giặc ốp ba quả mìn, ở hai đầu, một giữa cho nổ tung nhưng không xụp. Em không thể hiểu nổi hành động man rợ đó đã qua hơn 2000 năm không hề phục thiện?

Vùng chiến sự lúc đó thuộc kiểm soát của sư đoàn 337. Khi chúng em xuất trình lệnh của trung đoàn, mấy tay lính ở trạm nhìn em nói: "trẻ như thằng này nướng thịt thơm lắm". Câu nói như đùa, như nhắn hãy cẩn thận, đôi lúc vẫn rợn người anh Quế ạ!

Ngày 7-3 chúng ta đánh trận cầu Khánh Khê cho hả giận. Đêm đó pháo ta bắn dữ dội, em và H gác đêm thấy trời sáng rực, giữa tháng, đến thấy xác địch trôi trên sông, vỏ đạn nhiều như trấu, trận địa của sư đoàn 337 tạo thành mất lớp. Sau này được biết trận cầu KKhê trên Ql 1B LS, trận ở thị xã Cao Bằng và ở Cốc San-Bản Phiệt Lào Cai, mỗi trận chiến pháo binh, bộ binh ta đã tiêu diệt và làm bị thương 1000 tên giặc, báo chí ta và đài Tây đánh giá là hiệu suất cao nhất của chiến tranh bảo vệ biên giới.

Tên giặc cuối cùng ôm bộc phá đánh cầu KKhê được phong "anh hùng xâm lược", đài chúng ra rả la lên. Tháng 6 đơn vị hành quân qua cầu KKhê thấy vết bộc phá chỉ bằng cái nong tằm mà thằng giặc đó được phong danh.

Anh Quế thân mến! sau đó là những ngày gian khổ, đơn vị lui vào dải 2 của tuyến một cách biên giới dưới 10 km để củng cố đội hình, nhận lính mới, và hành quân diễn tập liên miên. Anh được lên chức tiểu đoàn phó, quân hàm trung úy. Thời ấy chức trước hàm, nay hàm  trước tìm chức sau.

Em không còn nhớ đã bao lần đi theo đội hình của cả sư đoàn vận động hành quân, áo xanh của lính xanh hơn lá rừng, rồi áo lính bạc phếch như áo người "móc cống". Ngày ấy lính nói đồ "móc cống" là chỉ sự ăn mặc ở quá khổ của anh em mình. Lúc đó, em không cảm nhận hết nỗi khổ vì trước kia em có sướng gì, vừa đi học lại vừa đi làm. Cũng như bao người lính em không quan tâm đến khó nhọc, quần áo rách xấu hổ với ai? là người lính có gì mặc đó nhưng cái đói và cái rét thì không thể quên. "Trâu đói hóa ghẻ, trẻ đói hóa sài" anh Quế ạ. Lần đầu tiên và duy nhất, em được thằng Hạnh quê Đà Bắc, Hòa Bình dùng kim băng nhể ở tay  ra 2 con ghẻ cái  đặt lên móng tay thấy ghẻ bò và nó giết "bép"

Lựu đạn nổ giữa đêm trong nhà dân bản Phai Cam, 6 chiến sỹ C1 bị thương, không hiểu tại sao đêm đó anh em ngủ đảo chiều; sau nữa lại nổ ở D3, thằng Th Gia Lâm mất, vừa hôm trước đi lấy gạo nó còn gọi chào em. Độc dược thù giết nhau "vô tư" ở chợ TĐ, em ở hang, ra sông tắm, ghẻ lở đầy người, lần về phép mẹ và bạn gái thương lắm; lên đồi hái củi, chặt trộm tre vầu, canh chốt không xuống núi cũng là may nhưng buồn lắm, chơi cờ bài ăn thuốc lá cuộn, hết thuốc lá thì không dám chơi bài ăn cơm, lấy áo của nhau.

Đói, rét đã làm em ngã trong một cuộc hành quân giữa trưa tháng 6, may mà Mịu Hoà Bình kịp đỡ không thì "sống cũng thành tật" . Em không có tấm hình nào ngày ấy, bây giờ chỉ còn duy nhất tấm hình của mình được đứa em cắt ra từ tấm hình chụp đôi trong ngày nó đưa em đi khám  sức khỏe. Tấm hình "vĩnh biệt" tuổi học trò.

Lúc chiến chinh, mặt em xanh xao, thấy bạn bè bảo thế, nhưng chỉ một thời gian sau lại được gọi là "H mập" để phân biệt  với thằng "H cao". Lần đói ngã  rồi ốm đó, em vào bệnh xá Trung đoàn được ăn nghỉ một tuần là khỏe, cũng là lần duy nhất đến nay.

Nhớ thương đồng đội, sống trong khe núi gió sương hun hút, bới bát cơm gạo hẩm nguội lạnh trong chiếc rổ rá đặt trên đất, chẳng có gì ăn đành đi cấu rau riếp cá, rau tàu bay, ngót rừng, hái ớt rừng hòa nước muối cho ấm bụng.

Mùa thu xứ Lạng tuyệt vời, nắng lên soi rõ sương  bay thành dòng vào lán trại, anh em đào giếng lấy nước nguồn trong xanh tắm giặt. Thằng Lộc khuyên em: sẵn củi đun nước tắm cho sạch, sau đó nó lấy lá cây so đũa thả vào nồi nước tắm để trị ghẻ… Lần sau em vào núi trèo hái lá bưởi tắm gội thơm như con gái. Thôi thì đói cơm cho sạch người, rách không cần vá, thiếu gạo thì ăn rau hoa quả…

Những năm tháng chiến chinh em ăn nhiều hoa trái, rau quả lắm, quả gì ăn được là ăn từ đầu vụ đến cuối vụ, nhất là mận, mía, dứa, móc cọp, củ cải…có lẽ vì thế mà một đứa  từ Camphuchia về, da tái mét nhìn thấy em nó bảo "nước da như anh H là hay"
……
Quê anh ở huyện Mỹ Đức, Hà Tây, xóm Mít, em không nhớ xã (Em coi qua bì thư chị gửi anh ngày đồn trú ở  bến sông Giang)

Ký ức đã trắng xóa, nhạt nhòa trong dòng mưa thời gian. Chúng em vẫn nhắc anh và đến thăm anh vào một lúc nào đó.
Em.
TB. Con chó thổ bốn mắt em và anh K tặng anh, anh cho thằng H mang về, nay “con cháu” chúng thế nào. Hồi đó em muốn nuôi nó nhưng anh thích…
Hóa đá hết rồi một thuở sống “xa hoa”


Anh Quế thân mến!

Là người lính, niềm tự hào còn mãi là mặc quân phục đứng dưới quân kỳ, khoác súng hát tiến quân ca. Sư đoàn 3 của chúng ta mang tên Sao Vàng- tên huân chương cao quý nhất của đất nước. Chính ủy, Chính trị viên  tiểu đoàn và lớp đàn anh trong KCCM đã kể chuyện truyền thống sư đoàn cho thế hệ em trong những ngày ở biên giới phía Bắc.

Sư đoàn Sao Vàng thành lập năm 1966 ở giốc Bà Bơi tỉnh Bình Định, cách đèo Cù Mông không xa. Ngày ấy em còn ở tuổi học "vỡ lòng". Sư đoàn đã hoàn thành sứ mệnh vẻ vang, chặn đường tàn quân giặc thất trận ở Cao nguyên mùa xuân năm 1975. Trận đánh cuối cùng của SĐ trong chiến dịch HCM tại cầu Cỏ May trên quốc lộ 51 Biên Hòa- Bà Rịa Vũng Tàu. Tiếp đó sư đoàn lại ngược về cao nguyên truy quét Fun-Rô. Anh Bình lính 74, kể những cuộc truy quét Fun Rô qua những nhà mồ, vào hang ổ sờ chăn chiếu bọn phỉ còn hơi ấm mà chúng lẩn rất nhanh.  Sau này em có dịp đi qua một số địa danh của SĐ trong KCCM, đến những huyện mà trung đoàn mang tên.

Năm 1976, Sư đoàn chuyển ra Bắc… Những vị tướng lĩnh của chúng ta đã chọn mặt gửi vàng vào sức cơ động của SĐ 3. Tháng 8- 1978, SĐ đã có mặt ở Lạng Sơn, tham gia xử lý đám người gây rối ở cửa khẩu Hữu Nghị tháng 8 năm đó bằng đòn nghi binh,… thế là họ ù té về bên kia không thiệt mạng nào, chấm dứt trò ăn vạ, ăn ảnh của báo chí phương Đông- Tây. Chỉ một Chiến sỹ biên phòng Lê Đình Chinh hy sinh đêm ấy.

Trên tuyến chính Lạng Sơn tháng 2-1979, SĐ  đã hoàn thành nhiệm vụ trấn giữ biên cương. Xương máu người lính Sao Vàng đã góp vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Em nghe một thống kê nói rằng: Lá cờ sư đoàn SV trĩu nặng huân chương anh hùng của các tập thể, cá nhân; số  thương binh, liệt sỹ SĐ đã đến gấp 3 lần biên chế của sư đoàn gồm ba trung đoàn bộ binh mang tên ba huyện của  Bình Định và các đơn vị khác:

-TĐ 2- An Lão (trung đoàn của anh và em);
-TĐ 12- Tây Sơn mắc giữa vòng vây của giặc từ ngày  17 đến 10 -3 - 79 với sự hy sinh quá lớn (thằng Diện quê Ứng Hòa lạc vào tiểu đoàn mình làm liên lạc cho anh đã kể chuyện những ngày sống chiến đấu trong  "biển giặc".
-TĐ 141 mang tên huyện Hoài Ân, trấn ở Cao Lộc, Lộc Bình với địa hình khá rộng;
-Trung đoàn  68 pháo binh;
-Các tiểu đoàn trực thuộc sư đoàn.

Những người lính chống Pháp, Mỹ nay cùng chiến hào với chúng em bảo vệ Tổ quốc đã minh chứng :" Nam quốc sơn hà Nam đế cư", đã nhắc lại với giặc " Nước Nam ta có chủ"

Ngày 10-3 -79 khi  súng vẫn nổ, tại Ba Xã hậu cứ của SĐ, TBT Lê Duẩn  đến thăm, tuyên dương, động viên chiến sỹ SĐ (sau này em mới biết).

Và hôm đó sơ xuất một chút thì chúng em mất mạng bởi tai nạn hy hữu cho những thước phim đúng người nhưng giả trận địa.

Đoàn làm phim quay hình ảnh chiến  sỹ  bắn DKZ, cối 82. Mấy đứa chúng em đứng sau, gần khẩu cối 82 .Quả DK bay vào khe núi, khói mù mịt, quả cối u u bay vào bầu trời tháng Ba, một quả cối rơi "phập" trước mâm cối  đôi mét,.. tất cả bỏ chạy, em vượt qua rào vườn té xấp,.. nhưng đạn không nổ, tay chỉ huy chợt nhớ các quả đạn cối đã tháo đầu nổ. Em quay lại coi thấy quả đạn rơi vỡ hòn đá gan gà, rúc sâu xuống đất,… liệu có quả đạn cối nào bắn lên rồi rơi vào  chính nòng súng nó thoát ra. Không. Trong chiến tranh, đã có chiến sỹ bắn B 41 quên không giật nắp an toàn đầu quả đạn, khác gì quẳng bắp hoa chuối vào xe tăng địch, không giật chốt lựu đạn thì như ném đá.

Cũng trong những ngày đó em gặp đoàn thanh niên thành phố Hà Nội (chủ yếu là sinh viên đại học Sư phạm I) lên hát ca khúc chính trị. Lúc em đến thì họ đã hát xong, họ hát ngay trên ruộng rạ, bên con đường đỏ ngầu đất đá xe qua, bên nấm mồ ai đó vội chôn. Em có giây phút lơ ngơ nhìn nhóm người tuổi trẻ, em nhìn huy hiệu đoàn trên ngực cô gái lớn hơn em, chiếc huy hiệu đó được tháo ra gài trên ngực áo thằng Hợp. Mãi sau này em biết đó là cô Quỳnh Liên ca sỹ, cán bộ đoàn của ĐHSP I và gần đây mới biết đó là vợ (đầu và cũ) của nhà thơ Trần Hòa Bình, tác giả bài "thêm một".

Những thanh niên, sinh viên một lần dũng cảm.

Nhầm lẫn và  không biết tên  thành  LS (vô danh), nhầm cũng xong bởi đều là con em mình trứng gà trứng vịt. Nhưng không ai muốn nhầm hài cốt. Cấp trên yêu cầu lính thêu trên ngực áo tên đơn vị, tên em " H…Db1. AL" là ở trung đội thông tin thuộc tiểu đoàn 1, trung đoàn An Lão. Một cái tên rất âm lịch, lính hay tán chuyện.

Sau này áo quần rách quá, một lần em được xuống chợ tìm vào hiệu may quen, được chủ mời cơm, cho con gái vá đồ miễn phí… cô gái tên T kém em 2 tuổi, rất quý em, hỏi chuyện nhiều em không nhớ, nhớ mãi T xinh, cao gần bằng em, mắt đen, tóc mượt lắm, môi miệng tươi, hay nhìn em cười. Bây giờ gặp, em không quên người.

Sau đó em không dám nhờ như thế, ít qua lại nhà T. Chúng em đem áo mới đi đổi đồ ăn. No vẫn hơn lành, đói sợ hơn rách. Một lần chính ủy Nguyễn Danh Mạc thấy lính rách quá, ông động viên: "đúng phẩm chất người chiến  sỹ ".
Em sẽ viết tiếp những ngày Bình Độ bốn trăm.
Kính chúc anh cùng gia đình mạnh khỏe.

Thứ Năm, 13 tháng 2, 2014

Hai đơn, thư viết đêm ngày 19/2/1979

Ngày đó cả nước ra trận. Các mẹ, các em và bao người thân lo lắng hướng về biên giới. Ngày ấy có bao cuộc ra đi “Biệt ly chua cay làn mắt ướt tóc xanh nay phai mờ” .

Trân trọng giới thiệu bạn đọc hai bức đơn, thư viết vào đêm ngày 19/2/1979.


1.Đơn xin chiến đấu của  Liệt sĩ Phạm Quang Thành, cựu chiến binh, sinh viên Khoa Toán ĐHTH Hà Nội

2.Thư của Liệt sĩ Nguyễn Thái Hòa gửi người yêu


1. Liệt sĩ Phạm Quang Thành

                            Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
                                      Độc lập -Tự do - Hạnh phúc

                                           ĐƠN XIN CHIẾN ĐẤU

Kính gửi các thủ trưởng trong đơn vị quân đội nhân dân Việt Nam
Tên tôi là: Phạm Quang Thành, là học sinh năm thứ nhất khoa toán trường đại học Tổng hợp Hà Nội. Tôi xin trình bày một việc sau đây:

Sau khi nghe sự kiện 4 giờ sáng ngày 17-2-1979 bọn phản động Trung quốc đã xâm phạm lãnh thổ nước ta, lòng tôi như lửa đốt. Tôi không thể ngồi yên học hành khi đồng bào và đồng chí của tôi đang đổ máu trên tuyến đầu Tổ quốc bảo vệ từng tấc đất thân yêu. Tôi đã làm đơn xin đi chiến đấu, nhưng vì tôi là một người lính đã trở về trường học tập nên việc xin nhập ngũ là rất khó. Chính vì vậy tôi đã đi từ Hà Nội lên đây và sẽ xin vào công tác ở bất cứ đơn vị cầm súng đánh giặc. Tôi biết đó là một khuyết điểm của mình, nhưng đánh xong giặc tôi sẽ xin chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân với khuyết điểm của mình. Là một đoàn viên thanh niên cộng sản mang tên Bác Hồ vĩ đại. Tôi càng tự hào bao nhiêu thì tôi càng hiểu trách nhiệm của mình bấy nhiêu. Trong khi tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc đang vang vọng trong lòng. Vậy, tôi khẩn thiết đề nghị các thủ trưởng hãy cho tôi sống và chiến đấu tại nơi đây. Tôi xin hứa sẽ hoàn thành bất kỳ nhiệm vụ gì cấp trên giao phó. Được như vậy tôi chân thành cảm ơn

Hà Nội ngày 19/2/1979
Người làm đơn
(ký tên)
Phạm Quang Thành
                                      Sao chép lại đơn

Mặt sau lá đơn
“Hy sinh anh dũng ngày 22-2-1979 tại đồi Thâm Mô, phía nam Đồng Đăng”*
Người chép lại đơn lần 2
Ngày 26.9.1981
Ký tên**
Đơn vị HT 1a. 6220 L.Sơn.

* Là chữ của anh Nguyễn Đình Loan, chính trị viên Đại đội 3, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn An Lão, Sư đoàn Sao Vàng, người bắt tướng Nguyễn Vĩnh Nghi ở Phan Rang năm 1975). Quê anh Loan ở Lục Nam, Bắc Giang.
** Tác giả bài viết.

 --------
Khắc tên mình trên dải đất biên cương

Chập tối ngày 22 tháng 2 năm 1979, những người lính đại đội 3, tiểu đoàn 1, trung đoàn An Lão, sư đoàn Sao Vàng, mặt trận Lạng Sơn, đang chiến đấu ở đồi Thâm Mô (gần thị xã Đồng Đăng), "tóm" được một thanh niên nhỏ nhắn, da đen, nhanh nhẹn, xin chiến đấu.

Anh đưa lá đơn "Kính gửi các thủ trưởng đơn vị quân đội nhân dân Việt Nam". Anh nhập ngũ năm 1975, có thẻ thương binh, thẻ sinh viên Khoa Toán đại học Tổng hợp Hà Nội. Anh đã được cầm súng chiến đấu,... đến sáng không còn nữa. Đồng đội xác nhận chiến đấu dũng cảm, hy sinh anh dũng...

Năm 1980 nhận hồ sơ, tôi lập danh sách đề nghị tiểu đoàn chuyển Trung đoàn công nhận liệt sỹ Phạm Quang Thành. Di vật gồm một số ảnh tập thể sinh viên, thư của người bạn gái, bản chính đơn xin chiến đấu... Hồ sơ chuyển anh Hòe (Ban Chính trị Trung đoàn An Lão, Anh Hòe cho biết, Trung đoàn đề nghị phong quân hàm thượng sỹ, trung đội trưởng, năm 1975 quân hàm binh nhất). Ai biết mộ liệt sỹ ở đâu?

Cách đây 20 năm, tôi gửi bản sao đơn xin chiến đấu của anh Thành tới báo Tiền phong, sau đó tôi đến Khoa Toán, Đoàn trường Đại học Khoa học tự nhiên, không ai biết anh. Sau cũng tìm được một người cùng Khoa thời đó xác nhận “có một Phạm Quang Thành đi chiến đấu, không về”.

Người anh hùng của giây phút vinh quang
Những người lính vinh danh anh như thế
Viên đạn cuối anh bắn vào vách đá
Khắc tên mình trên dải đất biên cương


Quê LS Phạm Quang Thành: Xóm 2, thôn Mỹ Bổng, xã Việt Hùng, huyệnVũ Thư, tỉnh Thái Bình

Nguồn: Tác giả Blog này
------------------------------

2. Đây là bức thư của Liệt sĩ Nguyễn Thái Hòa gửi người yêu


19/2/1979

Em thân yêu của anh!.
Thư em đến với anh giữa lúc anh cùng đơn vị chuẩn bị lên đường chiến đấu.
Lẽ ra anh không báo tin này cho em và gia đình biết, phần vì thời gian rất gấp và khẩn trương, phần vì anh không muốn em phải lo lắng nhiều vì anh.
Em thân yêu! Ở xa em có thể hiểu được tâm trạng của anh lúc này không em – bâng khuâng, buồn và nhớ da diết, anh bâng khuâng vì đêm nay là đêm cuối cùng ở vùng đất khu 4 này.
Ngày mai anh sẽ ra phương bắc để bước vào cuộc chiến mới.
Nơi đó cuộc ác chiến đã và đang diễn ra, nơi đó quân thù đang giày xéo biên cương của Tổ quốc.
Nơi đó đồng đội đang chờ anh.
Anh buồn vì những lúc này anh thấy mình cô đơn và buồn tẻ.
Anh nhớ em da diết bởi vì anh sẽ phải xa em nhiều năm nữa, chưa biết khi nào anh mới quay trở lại gặp em. Ôm em và hôn em thắm thiết.
Tình yêu của em và anh trong những ngày tháng qua đã để lại cho anh tình thương em, yêu em vô bờ bến. Có thể nói rằng mỗi bước đi, mỗi ngày sống anh đều có em…
Em ơi, ngày mai anh đi về phương bắc, anh không được gặp em để có đôi lời biệt ly!.
Ra đi mang nhiều nỗi nhớ thương, ai có thể thấu hiểu được lòng anh trong lúc này em nhỉ?.
Chỉ có anh thôi, anh đang sống trong giờ phút chia ly.
Bao lời anh nói em nhờ thư, nhờ gió mây gửi đến cho em.
Anh ra đi mang theo tình em, anh ra đi để được hiểu, được sống trong giờ phút có cảm nghĩ sâu sắc và tất nhiên sẽ hiểu hết các giá trị của Tình yêu.
Một tình yêu của anh với em không giới hạn. Một tình yêu vô cùng đẹp đẽ. Dù có nói vạn lần yêu em anh cảm thấy vẫn chưa đủ. Anh không biết nói gì hơn nữa để diễn tả nỗi nhớ tình thương và yêu em như lúc này.
Em yêu thương và nhớ mãi của anh! Chỉ còn 3 giờ đồng hồ nữa là anh tạm biệt nơi đây.
Có lẽ chiến thắng của quân dân ta ngày mai có thể có cả công anh. Nhớ theo dõi tin thắng trận và mừng cho anh em nhé.
Anh đã và đang chuẩn bị hành quân như em đã biết thư cho anh. Và đêm nay anh không ngủ để ghi mối trung thư trên mảnh đất này.
Ngày mai anh sẽ hành quân, anh sẽ không ngủ để nhớ em, không ngủ để diệt thù, không ngủ để nhìn em suốt canh thâu, không ngủ để gần em và luôn thấy em.

Nhận được thư này đừng nên lo lắng nhiều và buồn em nhé – tan giặc anh về, chờ đợi anh em nhé, chờ đợi anh.

Đêm 19/2.
Anh yêu của em

Tái bút: Anh chỉ nhận được thư em ngày 6/2. Vì chuyển nên đừng ghi theo địa chỉ cũ nữa, khi nào có địa chỉ mới anh sẽ báo tin sau. Anh đã ghi thư cho chị Nhuần + Huệ và em 2 lá. Nhưng mới chỉ nhận được thư em lúc 20h ngày 19/2. (Thông cảm cho anh vì thời gian rất gấp. Ngồi ghi thư cho em ngay trong lúc tất cả đang chuẩn bị lên đường – lính mà em).

Quê LS Nguyễn Thái Hòa, xã Hải Hùng, huyện Hải Hậu, Nam Định
Chuẩn úy NTH, Chính trị viên phó Đại đội 10, Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 52, Sư đoàn 337- Đoàn Khánh Khê.


Cầu Khánh Khê, nơi ghi dấu những chiến công của sư đoàn 337 - Ảnh: Trường Sơn.
Trận quyết chiến đêm 07-3-1979, hất quân xâm lược TQ về bên kia . Trước khi rút, một tên xâm lược liều mạng đánh bộc phá (bên mạn Bắc, to bằng cái nong tằm). Hai bờ sông vỏ đạn nhiều như vỏ trấu.


                                                   Tượng thờ dù "đục" vẫn thiêng
               Pháo đài Đồng Đăng-nơi tử chiến của lính sư đoàn Sao Vàng và bộ đội Lạng Sơn
                                               Miếu thờ để vắng vẫn nguyên miếu thờ

Thứ Tư, 12 tháng 2, 2014

“Tổng Danh mục các dự án kêu gọi đầu tư ở Việt Nam đến năm 2020”



Để các nhà đầu tư, những người có vốn bảo toàn và phát triển bền vững, đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chúng tôi biên soạn và xuất bản cuốn sách “Tổng Danh mục các dự án kêu gọi đầu tư ở Việt Nam đến năm 2020”. Cuốn sách sẽ cung cấp toàn bộ các dự án kêu gọi đầu tư ở 63 tỉnh, thành phố trong cả nước, các dự án của các ngành, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, doanh nghiệp. Các dự án này được các cơ quan chuyên môn xây dựng theo định hướng đầu tư của các tỉnh và đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Mỗi dự án là những tập tài liệu, nhưng trong cuốn sách này, chỉ tóm tắt những tiêu chí căn bản, như tên dự án, địa điểm, quy mô đất đai, công suất, ước nguồn vốn và đề xuất hình thức đầu tư, địa chỉ liên hệ... Cuốn sách còn có một nội dung khác, là những thông tin cô đọng về kinh tế Việt Nam và các tỉnh, thành phố trong cả nước; những chỉ dẫn về danh mục chương trình, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, đề án của các ngành kinh tế,... nhằm tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư tìm hiểu kỹ hơn trên mạng internet.

Các nhà đầu tư quan tâm đến các ngành, lĩnh vực đều có thể tìm được các dự án phù hợp; các cơ quan chuyên môn ở các ngành và các địa phương sẵn sàng hỗ trợ các thông tin chi tiết về dự án khi nhà đầu tư có nhu cầu. Nhà đầu tư cần kiên nhẫn, linh hoạt sẽ tìm chọn được một hoặc tổ hợp dự án để tiến hành đầu tư. Hôm nay, nhà đầu tư có dự án tốt, sẽ có lợi ích bền vững cho nhiều thế hệ, để lại dấu ấn tốt đẹp của cuộc đời cho đất nước và gia đình!
Thời gian với chúng ta là rất quý, thời gian dành cho lao động, học tập và hưởng thụ, thời gian để thúc đẩy và ủng hộ các ý tưởng sáng tạo với những góc nhìn tốt nhất... Để giúp bạn đọc tiết kiệm thời gian, chúng tôi biên soạn cuốn sách này, hy vọng mang đến cho bạn đọc thời gian để dành cho những ý tưởng mới; với hành động khẩn trương và ý chí quyết đoán, chúng ta sẽ thành đạt trong công việc, tình yêu và hạnh phúc...

Quy cách: Cỡ 19 x27; bìa cứng, giấy tốt.
Số trang 1120 trang, chữ chuẩn
Ngôn ngữ: Việt-Anh
Đơn vị xuất bản: Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Nhà Xuất bản Thông kê năm 2014
Giá bìa: 650.000 VND, mua ba cuốn được giảm giá.
Liên hệ người bán: Nguyễn Mạnh Hùng, ĐT: 094 5656 848, nguyenmanhhung288@yahoo.com.vn

Giao sách: Trực tiếp tại các quận thành phố Hà Nội, giao qua bưu điện không trả thêm cước; liên hệ với người bán để trả tiền qua tài khoản.
Nội dung gồm hai phần:

PHẦN THỨ NHẤT: TỔNG QUAN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
PHẦN THỨ HAI: DANH MỤC CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ CỦA CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ, CÁC NGÀNH .
TẬP THỂ TÁC GIẢ: CHUYÊN GIA BỘ, SỞ:
Ban biên tập:
- PGS, TS. Lê Xuân Đình 
- CN. Lê Minh Hải 
- Th.S Đỗ Thị Phương Lan 
- TS. Nguyễn Mạnh Hùng 
- Th.S Phạm Trọng Đức 
- Th.S Trần Thị Thanh Hà 
- Th.S Nguyễn Thị Huệ 
- CN. Phùng Thị Phương Anh 
- CN. Lê Thế Đức 
- Th.S Nguyễn Thị Hoan 
- Th.S Nguyễn Thu Hạnh 
- CN. Dương Lê Vân 
- CN. Nguyễn Anh Quyền 
- CN. Trần Thị Thanh Loan 
- Th.S Chu Minh Hội 
- CN. Nguyễn Hải Yến 

Trân trọng