Thứ Ba, 20 tháng 5, 2014

Bàn chùn



Nhân đọc bài của hai tác giả quen thuộc, có lời bình chữ đỏ dưới đây.

Hy mọng một thế hệ khác hai tác giả này.

Đó là thế hệ mới tư duy không nặng ơn huệ áo cơm của thể chế, chỉ còn ân nghĩa với non song.
 -----------------------


Bàn về 'KINH TẾ TT-ĐỊNH HƯỚNG XHCN' 

Phí Mạnh Hồng, PGS.TS., Đại học Quốc gia Hà Nội;

Trần Đình Thiên, PGS.TS., Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam.


NGUỒN: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU KINH TẾ, SỐ 3/2014

Cơ chế thị trường là một cơ chế kinh tế hiện thực, đã được xác lập một cách vững chắc trong lịch sử phát triển của kinh tế thế giới.

Cho đến nay, dù không phải là một cơ chế hoàn hảo, song nó vẫn chứng tỏ được rằng đó là một cơ chế phân bổ nguồn lực, một cơ chế phát triển tốt nhất hiện nay. Một quốc gia dựa trên nền tảng thị trường để phát triển kinh tế có thể không chắc chắn thành công, song một quốc gia không dựa trên thị trường chắc chắn sẽ thất bại trong dài hạn. Môt cách triệt để, đối với sự phát triển hiện đại, phát triển đồng nghĩa với việc xây dựng, phát triển, hoàn thiện nền kinh tế thị trường hiện đại. Kết cục của sự lựa chọn giữa kinh tế thị trường hay kinh tế phi thị trường, về mặt thực tiễn là rõ ràng, với ưu thế rõ rệt, không cần phải tranh cãi của mô hình của kinh tế thị trường.

Các kiểu mẫu phát triển khác nhau, sự thành công hay thất bại khác nhau, gắn liền với việc xử lý đúng đắn, hiệu quả, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn cụ thể về mối quan hệ giữa thị trường và nhà nước với tư cách là 2 phương thức phân bổ nguồn lực khác nhau, có thể bổ sung cho nhau, song cũng có thể triệt tiêu tính hiệu quả của nhau.Thực tiễn trước và sau Đổi mới ở Việt Nam chứng minh rằng: phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế (một thuộc tính phát sinh từ quá trình toàn cầu hoá của nền kinh tế thị trường hiện đại) là lựa chọn không thể tránh né của Việt Nam.

Nền tảng của nền kinh tế thị trường là dựa trên sự xác lập và thực thi phổ biến quyền sở hữu tư nhân về các tài sản (dùng cách diễn đạt "các tài sản" thay cho "các tư liệu sản xuất chủ yếu" như là đối tượng của sở hữu chính xác hơn. Tài sản bao gồm cả tài sản vô hình như tri thức, vốn là thứ đang nổi lên như một nguồn lực hàng đầu quyết định năng lực sáng tạo của cải trong nền kinh tế tri thức). Luận điểm này được thừa nhận phổ biến và được thực tiễn lịch sử kinh tế thế giới chứng minh. Nó cũng từng được C.Mac nêu lên như một trong hai điều kiện cần thiết của sự ra đời và phát triển của kinh tế hàng hoá.

Quyền sở hữu tư nhân được thực thi hàm nghĩa rằng người sở hữu tài sản có quyền khai thác, sử dụng tài sản của mình, được thụ hưởng các kết quả mà mình tạo ra từ tài sản đó. Thừa nhận quyền sở hữu tư nhân có nghĩa là mọi người chỉ có thể có được hàng hoá, tài sản từ người khác phải thông qua trao đổi mua bán, chứ không phải thông qua sự chiếm đoạt. Sở hữu tư nhân trong nền kinh tế thị trường đối nghịch với các quan hệ kinh tế dựa trên sự lệ thuộc cá nhân của các xã hội tiền tư bản. Nó là hình thái sở hữu tư nhân đích thực, trọn vẹn. Sức sống lâu bền của hệ thống kinh tế thị trường nằm ở chỗ: nó phù hợp với giai đoạn lịch sử mà con người về căn bản còn là những người tư lợi. Họ sản xuất, trao đổi trước hết vì lợi ích cá nhân của mình. Dựa trên nền tảng quyền tư hữu được tôn trọng và bảo vệ, hệ thống này cho phép các cá nhân phát huy được các tiềm năng của mình trong các hoạt động sản xuất trao đổi nhằm tối đa hoá các lợi ích cá nhân.

Như A.Smit đã chỉ ra, thông qua cơ chế cạnh tranh và sự lên xuống của giá cả, bàn tay vô hình của thị trường hoá ra lại là "cơ chế tuyệt diệu có thể chuyển hoá các nỗ lực theo đuổi lợi ích riêng của các cá nhân thành các lợi ích của toàn xã hội"2. Tôn trọng và phát huy sức mạnh của lợi ích cá nhân (hiểu theo nghĩa rộng, đó không chỉ là lợi ích vật chất, tiền bạc mà còn bao hàm cả những lợi ích tinh thần mà cá nhân theo đuổi) trên cơ sở xác lập và bảo vệ quyền tư hữu, coi đó là động lực sâu sa chi phối hành vi kinh tế con người – tất cả nhứng điều đó làm nên sức sống năng động và sự thịnh vượng của các nền kinh tế thị trường. "Hệ thống thị trường đã chứng kiến nhiều thay đổi trong hai năm qua, nhưng chế độ tư hữu vẫn tiếp tục đóng vai trò trung tâm. Khi sản xuất và trao đổi ngày càng phức tạp với mức độ chuyên môn hoá và phân công lao động ngày càng cao, quyền tư hữu càng được củng cố chứ không yếu đi trong các nền kinh tế thị trường, và việc thực thi quyền tư hữu ngày càng được mở rộng ở mức độ tinh vi hơn"3.

Đoạn trên “hàng xáo” được.

Hệ luỵ là: một nền kinh tế thị trường đúng nghĩa luôn lấy khu vực tư nhân làm chỗ dựa, làm động lực cho cả nền kinh tế. Không tôn trọng và bảo vệ đầy đủ quyền sở hữu tư nhân về tài sản, nền kinh tế thị trường khó có thể phát triển bình thường và phát huy được các tiềm năng của nó một cách trọn vẹn. Trong trường hợp đó, nếu "định hướng xã hội chủ nghĩa" được đồng nhất với định hướng mở rộng khu vực công, các hình thức sở hữu công, với sự phân biệt đối xử của nhà nước một cách có lợi cho những thành phần kinh tế được xem là "xã hội chủ nghĩa" (có hại cho khu vực tư) thì việc thực hiện "định hướng xã hội chủ nghĩa" sẽ mâu thuẫn với "phát triển kinh tế thị trường".

Nhầm lẫn của tư duy kinh viện như kiểu thế kỷ 13-14 của các học viện tôn giáo trung cổ.
Tại sao quên sơ đẳng: Mâu thuẫn để phát triển, chung sống của những đối lập, thỏa hiệp từng xảy ra như những trí thức Việt Nam không ưa thể chế nhưng vẫn bám vào nó để sinh tồn. Cái lệch của thể chế chính là đất mẫu mỡ của kẻ cơ hội, thực dụng và bạo lực. Do vậy, kinh tế thị trường và định hướng XHCN song hành, đồng lõa ở thể chế “KTTT định hướng XHCN”.

Cách nói "phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" là một cách nói thiếu xác định, có thể gây ra nhiều hệ luỵ xấu cho sự phát triển một khi nội dung của các khái niệm như "chủ nghĩa xã hội","định hướng xã hội chủ nghĩa" không rõ ràng. Cần phải thẳng thắn thừa nhận rằng: lý thuyết về chủ nghĩa xã hội của các nhà kinh điển Mac – lê nin đã không vượt qua được sự thử thách của thực tiễn khi mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực lần lượt sụp đổ. Các nước xã hội chủ nghĩa thuộc Liên Xô cũ và Đông Âu đã dứt khoát từ bỏ mô hình này, cả về mặt kinh tế và chính trị. Những nước như Cu Ba, Triều Tiên không muốn thay đổi và vẫn đang ở nấc thang phát triển thấp nhất trong thế giới đương đại cả về chỉ tiêu phát triển kinh tế lẫn con người. Khác với các trường hợp trên, các nước như Trung Quốc, Việt Nam chọn con đường đổi mới cải cách, chủ yếu về mặt kinh tế và bước đầu tỏ ra thành công. Tuy cách gọi khác nhau, song cải cách và đổi mới kinh tế thực chất là quá trình chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung cũ sang nền kinh tế thị trường. Từ chỗ bị kỳ thị, kinh tế tư nhân dần dần được thừa nhận, khôi phục và phát triển. Từ chỗ thống trị tuyệt đối, kinh tế nhà nước bị thu hẹp dần. Nhà nước cũng thay đổi dần dần cung cách điều hành, quản lí nền kinh tế theo nguyên tắc dựa nhiều hơn vào thị trường, hơn là hệ thống các mệnh lệnh hành chính gắn liền với quan hệ cấp phát, xin cho. Lịch sử đổi mới kinh tế ở Việt Nam thực chất là lịch sử đấu tranh giữa hai cơ chế kinh tế: cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp cũ gắn liền với mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực kiểu "Xô Viết" với cơ chế thị trường hiện đại mà hầu hết các nước đang theo đuổi. Mỗi bước tiến của đổi mới đều gắn với sự thừa nhận tính thị trường và tầm quan trọng của khu vực tư nhân nhiều hơn. Sự dích dắc, ngập ngừng của tiến trình Đổi mới, vốn gây ra những hệ quả xấu cho chất lượng và hiệu quả tăng trưởng – phát triển theo hướng bền vững, suy đến cùng đều gắn với việc chưa, không chấp nhận vai trò đích thực của khu vực tư nhân và áp đặt vai trò vốn có trước đây của khu vực công, của Nhà nước (gắn với cách hiểu chủ nghĩa xã hội cũ) vào nền kinh tế mới, đang chuyển mình theo xu hướng thị trường, mở cửa. Đổi mới do vậy thiếu tính triệt để, mất dần các xung lực mà nó đã tạo ra trong thời kỳ đầu. Những khó khăn nghiêm trọng mà nền kinh tế đã và đang đối diện thoạt nhìn có vẻ là hậu quả của việc theo đuổi một chiến lược tăng trưởng sai lầm (chạy theo số lượng, dựa vào khai thác, bóc lột tài nguyên, lao động rẻ và nguồn vốn "dễ dãi"), song thật ra có gốc rễ từ những bước đi ngập ngừng, miễn cưỡng đến một nền kinh tế thị trường hiện đại: đất đai, một loại tài sản và nguồn lực vô cùng quan trọng đặc biệt đối với một nước đi lên từ nông nghiệp như Việt Nam, vẫn không được chấp nhận là đối tượng của sở hữu tư nhân; kinh tế nhà nước vẫn được tuyên bố là giữ vai trò "chủ đạo" với một hệ thống doanh nghiệp nhà nước, mà xương sống là các tập đoàn nhà nước, tuy giảm nhiều về số lượng, song vẫn nắm giữ phần lớn các nguồn lực và tài sản quốc gia, bất chấp tính hiệu quả thấp của nó so với các doanh nghiệp phi nhà nước; Nhà nước vẫn chưa hoạt động như một thể chế thiết yếu của thị trường, hỗ trợ và bổ sung cho thị trường (cung cấp những dịch vụ công – bao gồm cả việc xác lập khung khổ pháp lý cần thiết, để đảm bảo cho thị trường vận hành trơn tru, hiệu quả; đóng vai trò trọng tài giữa người mua và người bán, người sản xuất và tiêu dùng… nhằm đảm bảo lợi ích cá nhân của người này không xâm hại đến lợi ích cá nhân của người khác…) mà vẫn hoạt động như một lực lượng đối nghịch với thị trường. Sự miễn cưỡng này không những làm sự phát triển của các lực lượng thị trường bị kìm nén, mà còn làm sự méo mó chính bản thân của sự phát triển này. Tính hiệu quả và năng động của thị trường luôn giả định một môi trường cạnh tranh cao song lành mạnh, khả dĩ cho phép các cá nhân dùng năng lực và tài sản của mình để làm giàu thông qua việc đưa ra các hàng hoá, dịch vụ có lợi cho xã hội, cho người khác. Khi nhà nước không tạo ra được môi trường cạnh tranh lành mạnh (giả định tính công khai, minh bạch, ít cơ hội tham nhũng) cho các cuộc chơi kinh tế, thì ngay cả thời gian và nguồn lực của các doanh nghiệp tư nhân cũng bị hướng vào các hoạt động phi hiệu quả về mặt xã hội (chẳng hạn vào việc thiết lập các quan hệ với bộ máy nhà nước để được nhận các đặc quyền, đặc lợi). Các quan hệ thị trường bị biến dạng, sự cấu kết giữa các tập đoàn kinh tế nhà nước và các "đại gia" tư nhân cùng với những người ra quyết định trong bộ máy nhà nước (hiện tượng "nhóm lợi ích" tìm kiếm các "đặc lợi" thường được mô tả trong kinh tế học công cộng) có thể biến một nền kinh tế thị trường chưa kịp hoàn thiện, được định danh như là một nền "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" thành một nền kinh tế thị trường có nhiều đặc tính của mô hình "chủ nghĩa tư bản thân hữu".

Đoạn trên hai tác giả đã bàn chùn khi nhìn thấy sức mạnh “quái lạ” của thể chế. Hai ông nên tham khảo thêm tư duy Việt Nam thì sẽ thấy cái gọi là kinh tế “chợ- market” nhỏ, tiểu nông, bần tiện là dòng chảy dài, liên tục suốt lịch sử Việt Nam và thế giới. Thời gian kinh tế kế hoạch hóa ngắn ngủi, nhưng kinh tế “chợ” dài dặm từ ngày người ta đổi cừu lấy muối vẫn chảy như là một tất yếu của sinh tồn.
Thể chế “"kinh tế thị trường” đó đã mặc định và nay được “định hướng xã hội chủ nghĩa" chính danh. Nó dường như đã khuyến khích làm giàu kiểu “trộm cướp và che đậy trộm cướp” bằng từ thiện và a dua thời thượng.
Điều này rất thích hợp với Việt Nam và của tất cả thể chế với tên gọi “kinh tế thị trường- dân chủ tự do”, và tất cả đều áp dụng chế tài.

Để làm rõ hơn sự bất cập, hay sự phá sản của cách hiểu cũ về chủ nghĩa xã hội trong đó sự thống trị của chế độ công hữu về " các tư liệu sản xuất chủ yếu" được xem là đặc trưng của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, chúng ta hãy xem xét lại những luận điểm cơ bản mà C.Mác sử dụng để đưa ra quan điểm của mình về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

1. Mác phê bình tính chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản và sự xung đột giai cấp giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản – điều sẽ dẫn đến sự sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa tư bản, thông qua học thuyết giá trị thặng dư. Cơ sở của học thuyết này là lý luận giá trị – lao động, với luận điểm trung tâm là chỉ có lao động mới tạo ra giá trị do W.Petty nêu lên. Luận điểm này chỉ là sự phản chiếu thực tiễn của thời đại kinh tế nông nghiệp, nơi mà lao động cơ bắp là yếu tố quyết định quá trình tạo ra của cải. Khi thời đại nông nghiệp bị vượt qua, thời đại kinh tế công nghiệp – đại cơ khí xác lập được chỗ đứng vững chắc trong các học thuyết kinh tế hiện đại, vì nó không giải thích được một sự thực là: có vô số thứ có giá trị cao mà không cần kết tinh, hoặc kết tinh rất ít lao động. Các lý thuyết kinh tế học hiện đại giải thích tốt hơn nhiều các xu hướng vận động của giá cả hàng hoá, dịch vụ hay giá cả các yếu tố đầu vào (bao gồm cả tiền lương). Khi lao động không phải là nguồn gốc duy nhất tạo ra giá trị, luận thuyết về tính chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trở nên không vững chắc. Sự thật về việc người lao động khi không có khả năng, hoặc không muốn tự đứng ra kinh doanh, mong có việc làm, "mong được bóc lột" cho thấy sự gắn bó lợi ích của họ với người tạo ra việc làm – các ông chủ tư bản hơn là sự xung đột lợi ích.

Ngoài ra, trong các nền kinh tế thị trường phát triển, luôn tồn tại tính linh động xã hội cho phép có sự dịch chuyển dễ dàng địa vị kinh tế – xã hội của một cá nhân. Hệ thống an sinh xã hội tốt, các chính sách giáo dục, y tế cùng nhiều chính sách khác mà các nhà nước phát triển thực thi thực sự mở ra nhiều cơ hội phát triển cho các cá nhân, khiến cho họ không nhất thiết phải cột chặt vào thân phận của "một giai cấp làm thuê, bị bóc lột" một cách tiền định như trong các xã hội đẳng cấp hay xã hội tư bản chủ nghĩa thế kỷ XIX. Xã hội vẫn luôn phân chia thành các nhóm người khác nhau, có mối quan tâm và lợi ích khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau, song chắc chắn sự mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản (liệu có còn người vô sản thực thụ, không có chút tư liệu sản xuất nào nên buộc phải đi làm thuê như Mác hình dung?) giảm nhẹ đi rất nhiều tính gay gắt của nó như dưới thời của Mác. Sức ảnh hưởng ngày càng hạn chế của các đảng cộng sản trong nước phát triển chẳng lẽ không phản chiếu điều đó?

Đoạn trên kinh viện quá, thành” kinh vật”, nếu không nói là cổ hủ. Hai tác giả đã trên dưới lục thập rồi;  những năm thể chế bao cấp, chắc các ông được nhồi lý luận (Xô viết học, nay muốn tẩy rất khó mặc dù các ông cố gắng quẫy đạp để bứt với sang tư duy cấp tiến. Muộn quá rồi vớt vát làm chi!

2. Sự thật thì tính chất gay gắt của những xung đột giai cấp, xung đột xã hội trong các xã hội tư bản chủ nghĩa là có thật dưới thời của Mác. Chế độ tư hữu theo kiểu thị trường cho phép con người tự do theo đuổi các lợi ích cá nhân, một mặt khuyến khích các cá nhân nỗ lực và sáng tạo không ngừng (và họ sẽ được thị trường tưởng thưởng một cách tự nhiên) thì mặt khác, nó cũng làm nảy sinh các mặt tiêu cực khi lòng tham của con người tư lợi không được chế ngự. Người này vẫn có thể xâm hại đến lợi ích của người khác và của xã hội, và hiện tượng bóc lột (do độc quyền, do lạm dụng quyền lực nhà nước, do sự không hoàn hảo của các quan hệ hợp đồng thường gây bất lợi cho những người lao động kém kỹ năng, ở thế yếu…) vẫn có thể xảy ra. Trên thực tế, ở Châu Âu, vào thế kỷ XIX, điều này đã tạo ra những xung đột lợi ích và mâu thuẫn giai cấp sâu sắc đến mức Mác, Ănghen đã đưa ra dự báo về sự sụp đổ tất yếu và trong một tương lai gần của chủ nghĩa tư bản.

Hai ông Mc-Ang và môn đệ (kiểu như hai tác giả của bài này những năm bao cấp Xô viết học) có quyền đánh bóng lý thuyết và kỳ vọng vào hiện thực. Tuy nhiên họ đã nhầm, những kẻ cướp muốn hoàn lương, và kẻ lương thiện trở mặt thành kẻ cướp. Đó là tất yếu của quan hệ xã hội về kinh tế trước lợi ích. Điều này đúng khi các chiến sỹ chia máu lửa ngày binh đao chống Mỹ nhưng không thể nhường nhau lốp xe đạp loại 1 khi được mua theo giá bao cấp. Không ai cho không ai cái gì là di chứng khủng khiếp của con người khi bứt ra khỏi con vật.

Tuy nhiên, trên thực tế, hệ thống kinh tế thị trường dựa trên quyền tư hữu đã không sụp đổ nhờ khả năng tự hoàn thiện của nó. Giải pháp để hệ thống này khắc phục các mặt tiêu cực phát sinh từ động cơ tư lợi, sửa chữa cái gọi là "thất bại thị trường" không phải là thủ tiêu chế độ tư hữu (như trong mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung của các nước xã hội chủ nghĩa cũ), mà là phát triển dần các thể chế để bảo vệ quyền của các cá nhân ở thế yếu và bất lợi, để trừng phạt các hành vi kinh doanh gian lận và lạm dụng những người kém may mắn giữa các nhóm lợi ích. Nhà nước hiện đại ngày càng đóng tốt hơn vai trò là trọng tài (bên thứ ba) trong các giao dịch thị trường thông qua việc cưỡng chế thi hành luật về quyền sở hữu, luật hợp đồng và các luật điều chỉnh khác đối với các hoạt động của khu vực tư nhân. Các chức năng của nhà nước cũng được mở rộng để đối phó với các "thất bại thị trường", bảo vệ cạnh tranh tự do (chống độc quyền, hiệu chỉnh ngoại ứng, cung cấp hàng hoá công, ổn định kinh tế vĩ mô…). Các hệ thống an sinh xã hội, thuế luỹ tiến, phúc lợi xã hội được xây dựng để hạn chế sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập. Sự mở rộng và hoàn thiện không ngừng vai trò của nhà nước với tư cách là một thể chế cung cấp các dịch vụ giao dịch vừa giúp duy trì hoạt động lành mạnh của trị trường tự do, vừa bổ sung và khắc phục các khiếm khuyết của thị trường. Quy mô của sở hữu công, khu vực công gắn liền với hoạt động của nhà nước trong các nền kinh tế thị trường hiện đại lớn hơn nhiều so với thời Mác, song đó không phải là lực lượng thay thế sở hữu tư, thay thế khu vực tư nhân như Mác hình dung.


3. Tiên đoán về sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản thị trường, dựa trên chế độ sở hữu tư nhân phổ biến dẫn Mác đến sự hình dung về một mô hình chủ nghĩa xã hội như là một giải pháp thay thế. Giải pháp này cũng đã được lịch sử kiểm nghiệm: thay thế chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa (như là hình thái phát triển đầy đủ của chế độ sở hữu đặc trưng trong nền kinh tế thị trường) bằng chế độ sở hữu công để tạo ra một xã hội tiến bộ hơn, có năng suất lao động cao hơn trong mô hình chủ nghĩa xã hội thiện thực, dù thoạt đầu có đem lại cho nhân loại nhiều hy vọng, song rút cuộc đã thất bại. Giờ đây, khi các sự kiện qua đi, người ta có điều kiện để hiểu rằng thất bại đó là không tránh khỏi. Điều này nằm ở chỗ: vẫn giống như thời Mác, cho đến nay con người vẫn là các cá nhân hành động trước hết để thoả mãn các lợi ích cá nhân của chính họ. Nói cách khác, các cá nhân trước hết vẫn là những người tư lợi, hành động vì những mục tiêu tiền tài, danh vọng, quyền lực… gắn với những giá trị cá nhân của mình. Một hệ thống kinh tế tốt không phải là hệ thống buộc người ta phải hy sinh các lợi ích cá nhân (trái với bản tính tự nhiên của con người), mà là hệ thống cho phép mỗi người trong khi theo đuổi lợi ích cá nhân của mình thì đồng thời lại mang lại lợi ích cho xã hội. Kinh tế thị trường như đã nói là một hệ thống như vậy, nhất là khi nó được kết hợp hiệu quả với một thể chế nhà nước hợp lý. Trong khi đó, một hệ thống kinh tế dựa trên sự thống trị của chế độ công hữu, về bản chất là một hệ thống phi thị trường. Nó được kỳ vòng là sẽ hoạt động hiệu quả vì người ta giả định ngầm rằng: 1, với sự thiết lập chế độ công hữu, các cá nhân sẽ trở thành các cá nhân "lý tưởng", luôn sẵn sàng hành động vì lợi ích chung; 2, xã hội dễ dàng thiết lập được một cơ chế phân bổ nguồn lực trực tiếp, không cần thông qua thị trường, theo một kế hoạch tối ưu, thống nhất chung. Có thể ở quy mô nhỏ nào đó, ví dụ khi "xã hội" thu hẹp lại ở một phạm vi gia đình, những giả định trên có thể chấp nhận đươc: tình yêu và quan hệ huyết thống có thể cho phép người ta nhân nhượng và hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích chung của cả gia đình; quy mô gia đình khiến cho việc phân bổ nguồn lực chung một cách có hiệu quả không quá phức tạp. Tuy nhiên, khi đề cập đến một xã hội rộng lớn hơn, các giả định trên tỏ ra rất phi thực tế.

Bài toán vận hành hiệu quả một nền kinh tế dựa trên sự thống trị của chế độ công hữu (về các tư liệu sản xuất) thực ra cho đến nay đã có câu trả lời: ở một quy mô rộng hớn, với tính phức tạp của nền kinh tế hiện đại, điều này là không thể. Một cơ chế ra quyết định theo kiểu dân chủ trực tiếp của hàng triệu người đồng sở hữu đối với việc sử dụng các tài sản chung và phân chia lợi tức thu được từ các tài sản này là không thể, vì chi phí giao dịch của việc ra quyết định là quá lớn. Các cơ chế đại diện, uỷ quyền (thông qua nhà nước hay các doanh nghiệp nhà nước) đều chứa đựng trong chúng những bất ổn do sự khác biệt và xung đột lợi ích của các cá nhân được đại diện hay uỷ quyền với lợi ích xã hội chung. (Trong một bài báo4, chúng tôi đã lý giải những lý do cụ thể dẫn đến các quyết định phi hiệu quả gắn liền với chế độ sở hữu công).

Trong khi coi chế độ sở hữu tư nhân là nguồn gốc của hiện tượng người bóc lột người (xin nhắc lại: luận điểm này được lý giải trên cơ sở tiền đề: chỉ có lao động mới tạo ra giá trị), Mác cho rằng, bằng cách thiết lập chế độ sở hữu công (sở hữu toàn dân), chủ nghĩa xã hội sẽ cho phép người ta thủ tiêu được hiện tượng người bóc lột người nói trên. Thực tế không phải như vậy. Sở hữu tư nhân trong nền kinh tế thị trường, khác với các hệ thống sở hữu tư nhân trong các xã hội tiền tư bản ở chỗ: cái thứ nhất gắn liền với mối quan hệ kinh tế của các cá nhân độc lập, còn cái sau lại gắn liền với mối quan hệ kinh tế theo kiểu chi phối – lệ thuộc (người nô lệ, hay nông nô không phải là những cá nhân độc lập, không phải là những người tư hữu). Trong kinh tế thị trường, việc thừa nhận và thực thi quyền sở hữu tư nhân phổ biến cũng hàm nghĩa là một người chỉ có thể nhận được hàng hoá, dịch vụ từ người khác thông qua trao đổi, mua bán, chứ không thể thông qua con đường nhận cống nạp hay chiếm đoạt. Vì thế, trong một môi trường kinh tế cạnh tranh và chính trị minh bạch, ở đây không tồn tại hiện tượng bóc lột. (Điều đó cũng có nghĩa là bóc lột vẫn có thể xảy ra, chẳng hạn như khi tồn tại hiện tượng độc quyền, tham nhũng…). Ngược lại, trong một nền kinh tế dựa trên sự thống trị phổ biến của sở hữu công, bản chất của hình thái sở hữu lại cho phép người này có thể hưởng thụ thành quả lao động của người khác, khi của cải làm ra được phân phối chung. Tình hình sẽ tệ hại hơn khi mọi người không có quyền và khả năng bình đẳng trong việc tiếp cận các tài sản chung, nguồn lực chung. Sỡ hữu công, đặc biệt là sở hữu toàn dân, trong thực tế thường được thực hiện thông qua sở hữu nhà nước. Việc nhà nước, thay mặt xã hội để quản lý các nguồn lực chung, thực thi các quyết định phân bổ nguồn lực khiến cho những người tham gia bộ máy nhà nước có lợi thế hơn hẳn so với những người "đồng sở hữu" còn lại. Việc hình thành một tầng lớp đặc quyền, đặc lợi gắn với quyền lực nhà nước là khó tránh khỏi. Điều này khác hẳn với trường hợp một khu vực công được hoạt động chủ yếu dựa vào nguồn thu thuế của những công dân độc lập như những người tư hữu và bị giám sát chặt chẽ bởi họ. Như vậy, phương án thay thế sở hữu tư nhân phổ biến bằng sở hữu công phổ biến thực chất không thủ tiêu được hiện tượng "người bóc lột người", mà ngược lại còn có khả năng làm vấn đề này trở nên trầm trọng hơn, chừng nào con người trước hết vẫn là các cá nhân tư lợi. Hệ quả này càng nổi bật trong bối cảnh của các nền kinh tế chuyển đổi, nơi mà sở hữu công vẫn có địa vị "chủ đạo" trong khi sở hữu tư cũng đã bắt đầu được thừa nhận hợp pháp, tạo ra động cơ để người ta có thể "chuyển hoá" tài sản công thành tài sản tư bằng cách lợi dụng các "lỗ hổng" thể chế.
Cả bài được đúng “bát xáo” trên
Như vậy, kết luận ở đây là: không thể coi sự phát triển, hoàn thiện chế độ sở hữu công như là một đặc tính của chủ nghĩa xã hội như chúng ta vẫn thường quan niệm, nếu hình dung chủ nghĩa xã hội như là một phương thức sản xuất tiến bộ hơn so với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Gắn định hướng xã hội chủ nghĩa với việc duy trì và phát triển sở hữu công thì mệnh đề "phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" tự nó đã mâu thuẫn. Trên thực tế, sự ngập ngừng, thiếu nhất quán, tính chất nửa vời và các hệ quả to lớn nảy sinh từ đó trong các quá trình cải cách và đổi mới ở Trung Quốc và Việt Nam đều có nguồn gốc từ ràng buộc của tư duy cũ này.

Mâu thuẫn là tất yếu để nó định dạng lại mệnh đề, nếu bỏ định hướng XHCN thì điều gì sẽ xẩy ra? Việt Nam có thể quay lại thời kỳ tiền tư bản thuở bình sinh của Mác và các môn đệ cuồng tín, vì  không giống văn hóa Tây phương sẽ trở nên tồi tệ. Nhiều kẻ nhầm tưởng dễ tiến nhanh, đón đầu, nắm bắt văn minh Tây phương “Dân chủ và kinh tế thị trường” như tiến lên CNXH một thời trước 1990.

Nếu muốn nói đến định hướng xã hội chủ nghĩa, không thể không gắn với mục tiêu của chủ nghĩa xã hội: giải phóng con người, xoá bỏ áp bức, bóc lột, nâng cao không ngừng thu nhập và phúc lợi của mọi người dân, xoá bỏ bất công trong đó có việc phân phối một cách công bằng các thành quả của tăng trưởng và phát triển kinh tế. Như trên đã nêu, mục tiêu này xung đột với việc thiết lập và duy trì sự thống trị của chế độ sở hữu công, với việc bảo vệ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Mục tiêu này cũng không thể đạt được trong một nền kinh tế kém phát triển, vận hành thiếu hiệu quả do thiếu vắng hoặc do tính chưa hoàn thiện của các quan hệ thị trường. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trước hết là phát triển một nền kinh tế thị trường đầy đủ, theo hướng văn minh, hiện đại (do đó có tính hội nhập cao), cho phép các nguồn lực của đất nước được phân bổ và sử dụng một cách có hiệu quả và nền kinh tế có khả năng duy trì được sự tăng trưởng có chất lượng, bền vững. Mặt khác, định hướng xã hội chủ nghĩa cho thấy mô hình kinh tế thị trường mà chúng ta lựa chọn phải có tính ưu tiên cao với các mục tiêu xã hội, trong chừng mực các mục tiêu này được xác lập vừa tầm với trình độ phát triển hiện thực của nền kinh tế: giải phóng con người, đảm bảo sự phát triển và thịnh vượng chung của tất cả mọi người một cách công bằng.Việc nâng cao mức sống vật chất và tinh thần trung bình của xã hội phải đi liền với việc phân phối một cách công bằng thành quả tăng trưởng và phát triển chung. Có thể nói: ưu tiên cao tính công bằng xã hội trên cơ sở giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa hiệu quả và công bằng mới thể hiện định hướng xã hội chủ nghĩa của tiến trình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Để theo đuổi định hương này việc hoàn thiện giữa việc xác định đúng đắn tương quan giữa nhà nước và thị trường với tư cách là hai thể chế hỗ trợ, bổ sung cho nhau là cực kỳ quan trọng. Nhà nước cần phải xác lập và tạo các điều kiện để thị trường phát triển và vận hành hiệu quả thông qua việc cung cấp các dich vụ công cần thiết. Nó có thể tham gia hiệu chỉnh, điều tiết thị trường thông qua những công cụ đặc trưng của nó (luật pháp, thuế, chi tiêu, chính sách điều tiết …). Ở đây nhà nước hoạt động chủ yếu như bên thứ ba với tư cách là trọng tài giữa các bên tham gia giao dịch thị trường hơn là người chủ sở hữu của các doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phân phối lần đầu các nguồn lực xuất phát , cũng như phân phối lại thu nhập hướng đến mục tiêu công bằng. Trong điều kiện phát triển hiện đại, công bằng xã hội trong lĩnh vực kinh tế sẽ phải gắn với việc phân phối công bằng các cơ hội phát triển cho mọi người dân – trong đó, công bằng trong tiếp cận các dịch vụ giáp dục, y tế là tối quan trọng. Đây không phải là điều dễ thực hiện , cần được triển khai trong một quá trình dài với từng bước tiến vững chắc. Song nếu không thực hiện được điều đó thì mọi sự tuyên bố về định hướng xã hội chủ nghĩa trở nên vô giá trị.

Đoạn cuối hai tác giả húp nước xáo, ngồi vào “bàn chùn- low tables”.Các tác giả là người được tự do phản biện mà viết như vậy thì đất nước vào thế “low chair”.


TĐT – PMH




[1] Phí Mạnh Hồng, PGS.TS., Đại học Quốc gia Hà Nội;
Trần Đình Thiên, PGS.TS., Viện Kinh tế Việt Nam.
2 Li Tan: Nghịch lý của chiến lược đuổi kịp. Nxb Trẻ, 2008, tr38.
3 Sđd, tr.41.
4 Phí Mạnh Hồng. Vấn đề phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 1 (392), tháng 1-2011.
NGUỒN: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU KINH TẾ, SỐ 3/2014

Thứ Hai, 19 tháng 5, 2014

HỒ CHÍ MINH SỐNG VUI






Bác vui trong cuộc sống, Bác phê phán diễn viên chim "chích choè" khi em được vào thăm nhà Bác, em nói nhiều quá, Bác chỉ lọ hoa hỏi: Bình hoa có mấy bông hoa?. Em nhí thấy có ba bông. Nhận ra lỗi, em nói ít, nói nhẹ hơn đúng giọng con gái.

Khi làm visa đi Pháp, hải quan ta hỏi tên cha Bác (cụ Nguyễn Sinh Sắc, hiện an nghỉ ở Cao Lãnh, Đồng Tháp, bàn thờ cụ hình bông sen nghiêng xuống khách đến viếng). Bác Hồ vui vẻ nói: Bác là Hồ Chí Minh, cha Bác là Hồ Chí Thông.

Văn phong Hồ Chí Minh mẫu mực của tiếng Việt, Bác phê phán làm,viết chữ thiếu dấu ở Nhà máy cơ khí Gia Lâm, thành " Nhà mày có khỉ già lắm". 

HCM viết không dài nhưng rõ, giàu hình tượng và văn hóa truyền thống.

Khẩu hiệu “Hồ Chí Minh muôn năm” cũng thiếu dấu Bác bảo : Bác mệt lắm, muốn nằm nghỉ đây.

Rất nhiều câu chuyện kể đời sống vui của Bác Hồ, thể hiện lạc quan cách mạng, thể hiện chút hài hước nhẹ nhàng, Hồ Chí Minh hòa vào đời sống muôn dân.

Thế hệ cha anh chúng ta được sống làm việc, được nghe nhiều chuyện sống vui của Bác Hồ đã kể nhiều chuyện hay. Tôi nghĩ phần ngôn ngữ (nói) đã hay còn hành động, phong cách rất hay và chúng ta chưa biết nhiều hơn.

Bác ở Nhà sàn qua phủ Chủ tịch làm việc, đi trên con đường cây kỷ niệm của bạn bè, của Kinh thành. Một hôm Bác nói anh bảo vệ gọi Thủ tướng sang làm việc (chắc Bác không muốn dùng điện thoại hoặc muốn nhanh). Anh bảo vệ phóng xe đạp đón Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Thủ tướng đi bộ rất nhanh (trước kia Thủ tướng là cầu thủ bóng đá), anh bảo vệ dắt xe chạy theo. Bác đón và "trách" :sao không ngồi xe lai nhau cho nhanh!

Một lần, nhiều lần các chú bảo vệ dỗi việc làm khoèo tán dóc, hút thuốc (giờ nghỉ, ngày nghỉ). Tuổi trẻ không thể thế được Bác nhắc: Các chú có thể dậy sửa lại bàn ghế, gường, cửa nhà ở, ra vườn cuốc để đất ải mà trồng rau, nếu hết việc ra bãi cỏ vật nhau, vui khoẻ. Tôi đã nhìn thấy một số bức ảnh ở miền quê xa lạ mà chủ nhân giữ được trong những tháng năm sống rừng Chiến khu Việt Bắc, thấy Bác mặc đồ mùa hè, ăn cơm trên bàn tre với cán bộ chiến sỹ, Bác có dáng của ông già làm vườn rừng.

Chuyện Bác gác thay một anh bộ đội khi anh bị ngã đau trong lúc gác là có sách. Còn có chuyện khác thì tôi cho là huyền thoại, kể rằng: Người đội trưởng bảo vệ căn cứ khá nghịch, một đêm anh ta đẩy “bù nhìn” rơm vào phòng làm việc, Bác đã “bắn trúng”, có tiếng nổ, đội trưởng và mọi người đến xin lỗi Bác, Bác bảo : Các chú gác thế thì…(cười)

Lần khác trong phủ, có chú lính gác trèo hái dừa đêm, Bác bắt gặp, bác đón dừa bảo chú lính xuống nhẹ nhàng kẻo ngã, sau đó bác gọi đội trưởng nhắc nhở việc kiểm tra gác : nhỡ chú hái dừa ngã thì sao?.

Một anh hàng xóm, con cán bộ cao cấp kể: Năm chống Mỹ (trước 1969) anh và mấy bạn được ra vào Phủ chủ tịch, vào nhà sàn ngoài giờ, anh lên nhà sàn thấy Bác, anh nhớ gương mặt Bác đăm chiêu nhìn bản đồ thế giới, Bác khoanh bút chì lên vùng lãnh thổ Việt Nam, Bác cho treo ảnh nguyên soái đánh thắng phát xít Đức, và Bác cho kẹo lúc nói chuyện với các cháu, thấy Bác vui lắm, anh cũng vui , nhớ khi được ăn kẹo của Bác.

Bác đến làm việc với tỉnh uỷ BG, khi chuyện trò và chia quà cho các cháu con cán bộ, có một chú trai bướng đái tè không chịu nhận quà. Bác bỏ qua, sau đó Bác nhắc bố cháu phải dạy dỗ (người bướng này tôi đoán đang ở Hà Nội hoặc TP. Hồ Chí Minh).

Hồ Chí Minh sống vui, sống đời.

Tôi không được học, nhưng thích đọc sách, sếp học xong tôi coi những cuốn sách viết về tư tưởng Hồ Chí Minh, thấy nổi rõ tinh thần yêu nước, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tinh thần đoàn kết, cao hơn hết là sống văn hoá, sống giữ lấy hoà bình.

Đọc tài liệu kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, học giả nước ngoài nói: Các ông (Việt Nam ) viết về Hồ Chí Minh rất ấn tượng, tuy nhiên các ông viết thế mới là kể chuyện. Cao hơn tất cả, Hồ Chí Minh là nhà Văn hoá của mọi thời đại, một chiến sỹ đấu tranh hay nhất cho hoà bình. Người Pháp, người Mỹ đã không biết điều đó mà cố tình xâm lược đất nước các ông. Họ đã đánh mất cơ hội hoà bình mà Hồ Chí Minh đã đưa ra với những nhượng bộ hay về danh dự và lợi ích.

Bác buồn khi xem tin chiến sự năm chống Mỹ, bác bảo : Trận đánh chết nhiều không thể là trận đánh hay. Ôi! truyền thống “chí nhân thay cường bạo” của Việt Nam..Ngày xưa quân Vương Thông ở Đông Đô đã được hưởng đường hòa mà về. Nước Pháp và thế giới lo sợ số phận tù binh Điện Biên Phủ chiều 7 và đêm 8-5-1954, nhưng tù binh đã được về chính quốc. Chiều 30-4-1975 ngụy quân, ngụy quyền, thế lực tồi tệ của thế giới đã quên lòng nhân nghĩa của Điện Biên Phủ… Họ nhầm lẫn, “sợ tắm máu” nghi ngờ suốt đời là sao?

Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống lý thuyết và thực hành cho thời đại chúng ta. Cần hoàn chỉnh cách diễn đạt.

Tranh luận phản biện: Cần thiết và mới mẻ hơn!




Lời giới thiệu
Thế giới xưa và nay là các cuộc thử nghiệm của loài người nhằm tiến bộ. Lịch sử nói nên rằng, không dễ gì có một lý thuyết mang giá trị phổ quát phủ lên chiều dài nhân loại. Loài người bế tắc, sai lầm lối tiếp xen kẽ những sáng tạo. Văn minh Đông -Tây tìm đến nhau nhưng không thay thế nhau, tiếp nhận nhau với tỷ lệ khác nhau. Trong thiên niên kỷ mới, các giá trị mới sinh ra và tái hiện những sai lầm của lịch sử (bóng ma luôn nhiều hơn bóng người hiện tại). Nhân loại dường như lười nhác ỷ thế vào văn minh khoa học, vào kinh nghiệm, và cả sự hiện hữu cho rằng luôn luôn đúng…. tàn phá thiên nhiên, ích kỷ, vô cảm, vô đạo không kém đã từng!
-Bài của TBT TCCS Vũ Văn Phúc không sai nhưng thiếu, dài nhưng không chặt chẽ. Ông liệt kê và nhận định kiểu mặc định. Đây cũng là một phương pháp khoa học cổ điển có vẻ như những thầy tu, linh mục của thời trung cổ bảo thủ chống lại Galile và Copecnic!
-Bài của tác giả 65 tuổi Đảng,Trung Hà thể hiện tinh thần phản biện, tuy nhiên ông hướng mạnh vào quan điểm, tư tưởng HCM, đúng, nhưng HCM không phải là toàn Đảng, toàn dân. Cách lập luận của ông liên tưởng đến phương pháp luận “sùng bái cá nhân” mà cá nhân không bao giờ làm nên lịch sử; nhân dân làm nên lịch sử nhưng lịch sử chẳng bao giờ tuân theo ý chí con người!
Sự hạn chế cách diễn đạt và tranh luận ngày hôm nay khá phổ biến. Tại sao chúng ta không dám xưng quan điểm riêng, mới của ĐCSVN mà không nhất thiết phải níu kéo quá khứ, dù quá khứ đó từng tích cực. Cần đổi mới lý luận hơn lúc nào hết.
-Đây là hai bài viết có giá trị học thuật hơn, là sự minh chứng cho mối quan tâm lớn về lý luận của ĐCSVN trong trăm năm tới; tiếc thay vẫn là cách nhìn phiến diện trong khuôn khổ bài viết, và tệ hơn là cách tầm chương trích cú khá “hủ học”. Chúng ta cần cách nhìn mới hơn bằng cảm thức hiện tại hướng tương lai!
Trân trọng cảm ơn  hai tác giả, xin được phép giới thiệu bạn đọc.


Phải chăng đây là sự hiểu biết “sâu sắc” về chủ nghĩa Mác – Lê-nin ?

Qua đọc bài viết của PGS, TS Vũ Văn Phúc với tựa đề : “Phải chăng chủ nghĩa Mác – Lê-nin là ngoại lai, bắt nguồn từ phương Tây nên không còn phù hợp với Việt Nam” đăng trên TCCS ngày 24/4/2014, tôi thấy cần góp ý vài điều như sau :
            1-Về chủ nghĩa cộng sản :
Phải chăng tác giả không biết hay đã cố tình bỏ qua những thay đổi trong quan điểm của Mác, Ăng-ghen về chủ nghĩa cộng sản. Thể hiện trong lời nói đầu của cuốn “Đấu tranh giai cấp ở Pháp”, xuất bản ngày 6/3/1895 Ăng-ghen đã viết : “Lịch sử chứng tỏ chúng ta đang mắc sai lầm. Quan điểm của chúng ta hồi đó chỉ là ảo tưởng. Lịch sử còn làm được nhiều hơn, không những đã xóa bỏ những mê muội của chúng ta hồi đó mà còn thay đổi điều kiện đấu tranh của giai cấp vô sản, phương pháp đấu tranh năm 1848 nay đã lỗi thời về mọi mặt…Chẳng có mục tiêu lớn “CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN” gì cả, đó chỉ là một mệnh đề được người khai sáng chủ nghĩa Mác đề xuất lúc trẻ nhưng đã vứt bỏ lúc cuối đời”. (Tạp chí Thông tin lý luận số 10/2007).
            2- Về sự khác nhau giữa Mác và Lê-nin
Không có lẽ tác giả không thấy được sự khác nhau giữa Mác và Lê-nin
Sau khi công bố “Tuyên ngôn của đảng cộng sản”, Mác, Ăng-ghen đã thành lập tổ chức Quốc tế cộng sản (Quốc tế I - 1864) để chỉ đạo thực hiện… Song thực tiễn cuộc sống diễn ra mấy thập kỷ sau đó đã khiến cho các ông nhận ra sai lầm và tự mình phủ định những quan điểm trước đó để đổi mới tư duy : tuyên bố giải tán Quốc tế cộng sản (1876), thay đổi mục tiêu và phương pháp đấu tranh theo hướng xã hội dân chủ…
Nhưng Lê-nin đã không hưởng ứng những sự thay đổi đó mà vẫn kiên trì bám theo những luận điểm ban đầu của Mác về bạo lực cách mạng và xây dựng xã hội cộng sản dựa trên nền tảng đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản…
Sau khi Mác và Ăng-ghen qua đời, Lê-nin đã kịch liệt phê phán những môn đệ trung thành với những ý tưởng đổi mới của Mác, Ăng-ghen như Béc-tanh, Cao-ski…coi đó là những kẻ “xét lại”, phản bội…qua tác phẩm : “Cách mạng vô sản và tên phản bội Cao-sky”. Thực chất là gián tiếp phê phán Mác, Ăng-ghen.
 Lê-nin còn đưa ra luận điểm các nước nông nghiệp lạc hậu có thể bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản – trái hẳn với luận điểm của Mác v.v...
    3- Về chủ nghĩa Mác – Lê-nin đối với cách mạng Việt Nam
 Tác giả đã cố tình gán ghép về nguyên nhân thắng lợi của cách mạng VN là sự vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin : “Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện, giáo dục, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng chính trị, kim chỉ nam cho hành động cách mạng, là minh chứng thuyết phục nhất chứng tỏ rằng, học thuyết Mác - Lê-nin đã thực sự đóng vai trò lý luận dẫn đường cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam.”Một sự ngộ nhận hết sức sai lầm.
Chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào Việt Nam thông qua Hồ Chí Minh như thông qua một bộ tinh lọc và có những bổ sung cực kỳ sáng tạo ngoài những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Chính vì vậy mới có được những thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam trong thế kỷ XX .
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh bao giờ cũng đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Lý luận Mác – Lê-nin nhấn mạnh đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản, nhưng Hồ Chí Minh lại cho rằng :
            “ Nghe  người  ta  nói giai cấp đấu tranh, mình cũng đề ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng” (HCM toàn tập, tập 5, tr 272).
“Trong lúc cần toàn dân đoàn kết mà chủ trương giai cấp đấu tranh là một điều ngu ngốc” (XYZ ,Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, Ban THTW, 1949).
            Về lực lượng cách mạng : Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết mọi lực lượng có thể đoàn kết được, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo...với khẩu hiệu : “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Kết quả là sự ra đời của Mặt trận Việt Minh (1941) đã quy tụ được sức mạnh của toàn dân tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.
Sau khi giành được chính quyền trong cách mạng Tháng 8/1945, Hồ Chí Minh không tuyên bố xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản mà chủ trương thiết lập chế độ dân chủ cộng hòa, (không dập khuôn theo mô hình cộng hòa xã hội chủ nghĩa của Liên Xô). Rồi sau đó thành lập chính phủ liên hiệp, gồm những người yêu nước và có năng lực không phân biệt thành phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo….
Như vậy, nguyên nhân căn bản của cuộc đấu tranh giành được độc lập và kháng chiến thành công là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ trương đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế...đã phát huy được truyền thống yêu nước, chống xâm lược của cả dân tộc và tranh thủ được ủng hộ của quốc tế...chứ không phải là đã thực hiện theo lý luận về đấu tranh giai cấp,  của chủ nghĩa Mác - Lê-nin (cả Mác và Lê-nin đều không có khái niệm đại đoàn kết). Nếu thực hiện đúng theo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê-nin thì không thể có thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng 8/1945 và thành công rực rỡ của hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ.
Từ những điều kể trên cho thấy những quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ bản là khác biệt so với các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Nếu như quy luật nhận thức của mỗi người đối với sự vật, hiện tượng khách quan là một quá trình... thì có thể thấy rõ nhận thức, quan điểm của Hồ Chí Minh đối với chủ nghĩa cộng sản cũng không ngoài quy luật đó.Với những quan sát và trải nghiệm trên khắp năm châu bốn biển trong suốt cả cuộc đời, quan tâm nghiên cứu đủ các loại học thuyết, các chủ nghĩa trên thế giới…Người cũng mong muốn có một xã hội cộng sản chủ nghĩa như ước mơ của Mác, nhưng đã sớm  nhận ra đó chỉ là ý tưởng cao đẹp, nhưng không có khả năng biến thành hiện thực. Tuy nhiên mục tiêu giành và giữ độc lập cho đất nước giữa thế kỷ 20 đòi hỏi phải tranh thủ sự giúp đỡ của phong trào cộng sản quốc tế, vì vậy đành phải chấp nhận thực hiện một số điều ngoài ý muốn...Cho đến những năm cuối đời (1965 – 1969) Hồ Chí Minh đã dành thời gian nghiền ngẫm, cẩn trọng biên soạn một bản Di chúc tâm huyết để lại cho toàn đảng, toàn dân, đề cập đến mọi vấn đề hệ trọng của đất nước, song trong đó không có lời  nào  căn  dặn phải đưa nước ta đi lên chủ nghĩa cộng sản mà chỉ nhấn mạnh rằng : “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là : Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam HÒA BÌNH, THỐNG NHẤT, ĐỘC LẬP, DÂN CHỦ VÀ GIẦU MẠNH, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế  giới”.
4- Ca ngợi một chiều thắng lợi, cố tình lẩn tránh, không đề cập đến những sai lầm, thất bại của đảng trong các thời kỳ chủ trương thực hiện theo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin :
         - Những năm 30 của thế kỷ XX, Trần Phú thực hiện theo chỉ đạo của Quốc tế cộng sản (Đệ tam) chủ trương đặt nhiệm vụ đấu tranh giai cấp lên hàng đầu, dẫn đến thất bại của cuộc khởi nghĩa Xô- viết Nghệ Tĩnh với khẩu hiệu : “Trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”.
            -Từ 1953 đến 1956 : Tiến hành cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức theo sự áp đặt của Liên xô, Trung Quốc ... phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc, gây nên một trong hậu quả nặng nề trong lịch sử của đất nước.
            -Từ 1976 đến 1985 : Thực hiện chuyên chính vô sản, triệt để cải tạo công thương nghiệp, xóa bỏ giai cấp tư sản, kinh tế tư nhân, đối xử tệ bạc và thành kiến nặng nề với những người đã làm việc trong bộ máy chính quyền cũ...Xây dựng nền kinh tế theo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin và mô hình cộng hòa XHCN xô viết của Liên xô...kết quả đưa đất nước vào một thời kỳ khủng hoảng trầm trọng.
            Thử đặt câu hỏi : nguyên nhân căn bản của những lần thất bại đó là gì ? Phải chăng cũng đều là do lãnh đạo đã đi chệch khỏi lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê-nin ? Câu trả lời là trái lại, vì đã làm đúng lý luận về đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản và xây dựng chế độ XHCN để tiến lên chủ  nghĩa cộng sản !
              5-Về nguyên nhân sụp đổ của LX và các nước XHCN Đông Âu
Tác giả cho rằng “ ...bắt đầu từ sai lầm trong xây dựng đường lối lãnh đạo của Đảng cầm quyền ở đó, do đi chệch khỏi chủ nghĩa Mác - Lê-nin chân chính, mà còn là sự xét lại và phản bội chủ nghĩa xã hội khoa học; đồng thời không thể không kể đến những âm mưu thâm độc trong chiến lược “diễn biến hòa bình” mà chính chủ nghĩa đế quốc quốc tế sử dụng...”
Về vấn đề này trong bài “Cận cảnh Liên xô và Đông Âu sụp đổ “ đăng trên báo Tuanvietnamnet – 7/11/2013, thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện chiến lược Bộ công an phân tích như sau :
Một là, Đảng cộng sản Liên Xô đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng. Đi liền với nó là các bệnh tật: độc đoán, chuyên quyền, không chấp nhận những ý kiến khác với mình; coi thường tập thể, coi thường cấp dưới, tự cho mọi ý kiến của mình là chân lý buộc mọi người phải tuân theo, coi những ai có ý kiến ngược lại là chống đối, thậm chí là thù địch, khi cần thiết bảo vệ "cái uy" của mình, họ sẵn sàng đối xử với đồng chí, đồng đội như đối với kẻ thù...
 Hai là, Bộ Chính trị, BCHTƯ Đảng cộng sản Liên Xô đã quan liêu xa rời thực tiễn, để mất quan hệ máu thịt giữa Đảng CSLX với nhân dân Liên Xô. Tệ quan liêu làm cho những người lãnh đạo các cấp của Đảng CSLX xa rời thực tế, không có hiểu biết đúng đắn hiện trạng xã hội mà mình đang lãnh đạo, quản lý. Họ thờ ơ trước những nguyện vọng chính đáng của quần chúng, thậm chí không có rung động, phản ứng trước những nỗi thống khổ, oan ức của một bộ phận quần chúng nhân dân, trong đó có cả một bộ phận đảng viên, cán bộ cấp dưới.
 Ba là, những suy thoái về đạo đức, lối sống của một số lãnh đạo cấp cao giữ vai trò chủ chốt với những biểu hiện nổi bật: Sống ích kỷ, đặt lợi ích của bản thân, gia đình và người thân lên trên lợi ích của đảng, của nhân dân; cục bộ địa phương, kéo bè kéo cánh đưa những người thân tín với mình, kể cả những người yếu về năng lực, kém về đạo đức, lối sống vào những vị trí lãnh đạo để làm vây cánh, che chắn bảo vệ mình; tham ô, sống xa hoa, nói một đằng làm một nẻo, cá biệt còn tha hoá, suy đồi về đạo đức, lối sống.
Trên đây là những biểu hiện nổi bật chủ yếu sự thoái hoá của một bộ phận cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Liên Xô, nhất là các cán bộ chủ chốt ở cấp cao.
Chỉ khi nào sự thoái hóa, biến chất diễn ra tại trung tâm quyền lực (chóp bu) của Đảng thì mới trở thành nguy cơ đối với Đảng, đó là đêm trước của sự tan rã, sụp đổ. Đảng cộng sản Liên Xô và các "phiên bản" Đông Âu của nó thuộc trường hợp này.”
Tham khảo thêm nhận xét TRUNG HÀ
Qua đọc bài viết của PGS, TS Vũ Văn Phúc với tựa đề : “Phải chăng chủ nghĩa Mác – Lê-nin là ngoại lai, bắt nguồn từ phương Tây nên không còn phù hợp với Việt Nam” đăng trên TCCS ngày 24/4/2014, tôi thấy cần góp ý vài điều như sau :
             1-Về chủ nghĩa cộng sản :
Phải chăng tác giả không biết hay đã cố tình bỏ qua những thay đổi trong quan điểm của Mác, Ăng-ghen về chủ nghĩa cộng sản. Thể hiện trong lời nói đầu của cuốn “Đấu tranh giai cấp ở Pháp”, xuất bản ngày 6/3/1895 Ăng-ghen đã viết : “Lịch sử chứng tỏ chúng ta đang mắc sai lầm. Quan điểm của chúng ta hồi đó chỉ là ảo tưởng. Lịch sử còn làm được nhiều hơn, không những đã xóa bỏ những mê muội của chúng ta hồi đó mà còn thay đổi điều kiện đấu tranh của giai cấp vô sản, phương pháp đấu tranh năm 1848 nay đã lỗi thời về mọi mặt…Chẳng có mục tiêu lớn “CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN” gì cả, đó chỉ là một mệnh đề được người khai sáng chủ nghĩa Mác đề xuất lúc trẻ nhưng đã vứt bỏ lúc cuối đời”. (Tạp chí Thông tin lý luận số 10/2007).
             2- Về sự khác nhau giữa Mác và Lê-nin
Không có lẽ tác giả không thấy được sự khác nhau giữa Mác và Lê-nin
Sau khi công bố “Tuyên ngôn của đảng cộng sản”, Mác, Ăng-ghen đã thành lập tổ chức Quốc tế cộng sản (Quốc tế I - 1864) để chỉ đạo thực hiện… Song thực tiễn cuộc sống diễn ra mấy thập kỷ sau đó đã khiến cho các ông nhận ra sai lầm và tự mình phủ định những quan điểm trước đó để đổi mới tư duy : tuyên bố giải tán Quốc tế cộng sản (1876), thay đổi mục tiêu và phương pháp đấu tranh theo hướng xã hội dân chủ…
Nhưng Lê-nin đã không hưởng ứng những sự thay đổi đó mà vẫn kiên trì bám theo những luận điểm ban đầu của Mác về bạo lực cách mạng và xây dựng xã hội cộng sản dựa trên nền tảng đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản…

Sau khi Mác và Ăng-ghen qua đời, Lê-nin đã kịch liệt phê phán những môn đệ trung thành với những ý tưởng đổi mới của Mác, Ăng-ghen như Béc-tanh, Cao-ski…coi đó là những kẻ “xét lại”, phản bội…qua tác phẩm : “Cách mạng vô sản và tên phản bội Cao-sky”. Thực chất là gián tiếp phê phán Mác, Ăng-ghen.
 Lê-nin còn đưa ra luận điểm các nước nông nghiệp lạc hậu có thể bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản – trái hẳn với luận điểm của Mác v.v...
    3- Về chủ nghĩa Mác – Lê-nin đối với cách mạng Việt Nam
 Tác giả đã cố tình gán ghép về nguyên nhân thắng lợi của cách mạng VN là sự vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin : “Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện, giáo dục, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng chính trị, kim chỉ nam cho hành động cách mạng, là minh chứng thuyết phục nhất chứng tỏ rằng, học thuyết Mác - Lê-nin đã thực sự đóng vai trò lý luận dẫn đường cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam.”Một sự ngộ nhận hết sức sai lầm.
Chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào Việt Nam thông qua Hồ Chí Minh như thông qua một bộ tinh lọc và có những bổ sung cực kỳ sáng tạo ngoài những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Chính vì vậy mới có được những thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam trong thế kỷ XX .
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh bao giờ cũng đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Lý luận Mác – Lê-nin nhấn mạnh đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản, nhưng Hồ Chí Minh lại cho rằng :
            “ Nghe  người  ta  nói giai cấp đấu tranh, mình cũng đề ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng” (HCM toàn tập, tập 5, tr 272).
“Trong lúc cần toàn dân đoàn kết mà chủ trương giai cấp đấu tranh là một điều ngu ngốc” (XYZ ,Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, Ban THTW, 1949).
            Về lực lượng cách mạng : Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết mọi lực lượng có thể đoàn kết được, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo...với khẩu hiệu : “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Kết quả là sự ra đời của Mặt trận Việt Minh (1941) đã quy tụ được sức mạnh của toàn dân tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.
Sau khi giành được chính quyền trong cách mạng Tháng 8/1945, Hồ Chí Minh không tuyên bố xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản mà chủ trương thiết lập chế độ dân chủ cộng hòa, (không dập khuôn theo mô hình cộng hòa xã hội chủ nghĩa của Liên Xô). Rồi sau đó thành lập chính phủ liên hiệp, gồm những người yêu nước và có năng lực không phân biệt thành phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo….
Như vậy, nguyên nhân căn bản của cuộc đấu tranh giành được độc lập và kháng chiến thành công là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ trương đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế...đã phát huy được truyền thống yêu nước, chống xâm lược của cả dân tộc và tranh thủ được ủng hộ của quốc tế...chứ không phải là đã thực hiện theo lý luận về đấu tranh giai cấp,  của chủ nghĩa Mác - Lê-nin (cả Mác và Lê-nin đều không có khái niệm đại đoàn kết). Nếu thực hiện đúng theo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê-nin thì không thể có thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng 8/1945 và thành công rực rỡ của hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ.
Từ những điều kể trên cho thấy những quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ bản là khác biệt so với các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Nếu như quy luật nhận thức của mỗi người đối với sự vật, hiện tượng khách quan là một quá trình... thì có thể thấy rõ nhận thức, quan điểm của Hồ Chí Minh đối với chủ nghĩa cộng sản cũng không ngoài quy luật đó.Với những quan sát và trải nghiệm trên khắp năm châu bốn biển trong suốt cả cuộc đời, quan tâm nghiên cứu đủ các loại học thuyết, các chủ nghĩa trên thế giới…Người cũng mong muốn có một xã hội cộng sản chủ nghĩa như ước mơ của Mác, nhưng đã sớm  nhận ra đó chỉ là ý tưởng cao đẹp, nhưng không có khả năng biến thành hiện thực. Tuy nhiên mục tiêu giành và giữ độc lập cho đất nước giữa thế kỷ 20 đòi hỏi phải tranh thủ sự giúp đỡ của phong trào cộng sản quốc tế, vì vậy đành phải chấp nhận thực hiện một số điều ngoài ý muốn...Cho đến những năm cuối đời (1965 – 1969) Hồ Chí Minh đã dành thời gian nghiền ngẫm, cẩn trọng biên soạn một bản Di chúc tâm huyết để lại cho toàn đảng, toàn dân, đề cập đến mọi vấn đề hệ trọng của đất nước, song trong đó không có lời  nào  căn  dặn phải đưa nước ta đi lên chủ nghĩa cộng sản mà chỉ nhấn mạnh rằng : “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là : Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam HÒA BÌNH, THỐNG NHẤT, ĐỘC LẬP, DÂN CHỦ VÀ GIẦU MẠNH, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế  giới”.
4- Ca ngợi một chiều thắng lợi, cố tình lẩn tránh, không đề cập đến những sai lầm, thất bại của đảng trong các thời kỳ chủ trương thực hiện theo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin :
- Những năm 30 của thế kỷ XX, Trần Phú thực hiện theo chỉ đạo của Quốc tế cộng sản (Đệ tam) chủ trương đặt nhiệm vụ đấu tranh giai cấp lên hàng đầu, dẫn đến thất bại của cuộc khởi nghĩa Xô- viết Nghệ Tĩnh với khẩu hiệu : “Trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”.
-Từ 1953 đến 1956 : Tiến hành cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức theo sự áp đặt của Liên xô, Trung Quốc ... phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc, gây nên một trong hậu quả nặng nề trong lịch sử của đất nước.
            -Từ 1976 đến 1985 : Thực hiện chuyên chính vô sản, triệt để cải tạo công thương nghiệp, xóa bỏ giai cấp tư sản, kinh tế tư nhân, đối xử tệ bạc và thành kiến nặng nề với những người đã làm việc trong bộ máy chính quyền cũ...Xây dựng nền kinh tế theo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin và mô hình cộng hòa XHCN xô viết của Liên xô...kết quả đưa đất nước vào một thời kỳ khủng hoảng trầm trọng.
            Thử đặt câu hỏi : nguyên nhân căn bản của những lần thất bại đó là gì ? Phải chăng cũng đều là do lãnh đạo đã đi chệch khỏi lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê-nin ? Câu trả lời là trái lại, vì đã làm đúng lý luận về đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản và xây dựng chế độ XHCN để tiến lên chủ  nghĩa cộng sản !
              5-Về nguyên nhân sụp đổ của LX và các nước XHCN Đông Âu
Tác giả cho rằng “ ...bắt đầu từ sai lầm trong xây dựng đường lối lãnh đạo của Đảng cầm quyền ở đó, do đi chệch khỏi chủ nghĩa Mác - Lê-nin chân chính, mà còn là sự xét lại và phản bội chủ nghĩa xã hội khoa học; đồng thời không thể không kể đến những âm mưu thâm độc trong chiến lược “diễn biến hòa bình” mà chính chủ nghĩa đế quốc quốc tế sử dụng...”

Về vấn đề này trong bài “Cận cảnh Liên xô và Đông Âu sụp đổ “ đăng trên báo Tuanvietnamnet – 7/11/2013, thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện chiến lược Bộ công an phân tích như sau :
Một là, Đảng cộng sản Liên Xô đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng. Đi liền với nó là các bệnh tật: độc đoán, chuyên quyền, không chấp nhận những ý kiến khác với mình; coi thường tập thể, coi thường cấp dưới, tự cho mọi ý kiến của mình là chân lý buộc mọi người phải tuân theo, coi những ai có ý kiến ngược lại là chống đối, thậm chí là thù địch, khi cần thiết bảo vệ "cái uy" của mình, họ sẵn sàng đối xử với đồng chí, đồng đội như đối với kẻ thù...
 Hai là, Bộ Chính trị, BCHTƯ Đảng cộng sản Liên Xô đã quan liêu xa rời thực tiễn, để mất quan hệ máu thịt giữa Đảng CSLX với nhân dân Liên Xô. Tệ quan liêu làm cho những người lãnh đạo các cấp của Đảng CSLX xa rời thực tế, không có hiểu biết đúng đắn hiện trạng xã hội mà mình đang lãnh đạo, quản lý. Họ thờ ơ trước những nguyện vọng chính đáng của quần chúng, thậm chí không có rung động, phản ứng trước những nỗi thống khổ, oan ức của một bộ phận quần chúng nhân dân, trong đó có cả một bộ phận đảng viên, cán bộ cấp dưới.
 Ba là, những suy thoái về đạo đức, lối sống của một số lãnh đạo cấp cao giữ vai trò chủ chốt với những biểu hiện nổi bật: Sống ích kỷ, đặt lợi ích của bản thân, gia đình và người thân lên trên lợi ích của đảng, của nhân dân; cục bộ địa phương, kéo bè kéo cánh đưa những người thân tín với mình, kể cả những người yếu về năng lực, kém về đạo đức, lối sống vào những vị trí lãnh đạo để làm vây cánh, che chắn bảo vệ mình; tham ô, sống xa hoa, nói một đằng làm một nẻo, cá biệt còn tha hoá, suy đồi về đạo đức, lối sống.
Trên đây là những biểu hiện nổi bật chủ yếu sự thoái hoá của một bộ phận cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Liên Xô, nhất là các cán bộ chủ chốt ở cấp cao.
Chỉ khi nào sự thoái hóa, biến chất diễn ra tại trung tâm quyền lực (chóp bu) của Đảng thì mới trở thành nguy cơ đối với Đảng, đó là đêm trước của sự tan rã, sụp đổ. Đảng cộng sản Liên Xô và các "phiên bản" Đông Âu của nó thuộc trường hợp này.”
Tham khảo thêm nhận xét của các nhà nghiên cứu trên thế giớicho thấy: ô...nguyên nhân quan trọng về sự sụp đổ của ĐCSLX sau 74 năm cầm quyền là nạn tham nhũng trong bộ máy lãnh đạo : “sự đồi bại, trụy lạc trở nên phổ biến, nạn tham ô, hối lộ chính là đặc điểm của thời kỳ Brêgiơnép”, mà điển hình là Tổng bí thư ! “Brêgiơnép thích câu cá và săn bắn. Việc đi săn và câu cá của Brêgiơnép cũng gièng như nhà vua đi tuần thú vậy, tiền hô hậu ủng, kéo theo đó là những buổi yến tiệc linh đình. Lúc này, trong quan chức của Liên Xô thịnh hành phong cách “tiệc tùng” và “quà biếu”. Mọi người đều coi quà biếu kiểu này như một “nghi thức giao tiếp bình thường” một người có thể tiếp nhận quà biếu nhiều nhất không ai khác chính là Tổng bí thư Brêgiơnép...những chiếc xe hơi được biếu tặng của Brêgiơnép đã chất đầy mấy gara ôtô, súng săn thì chất đầy một căn phòng lớn ! v.v...” [*] Từ đó mà hình thành cả một mạng lưới đặc quyền đặc lợi, tham nhũng phổ biến từ trên xuống dưới. (xem : “Bàn về công tác xây dựng năng lực cầm quyền của đảng” - trang 38, 39 - NXB Chính trị quốc gia - Hà Nội - 2010).
Mầm mống của sự tan rã và mất chính quyền của Đảng cộng sản Liên Xô vào năm 1991 chính là ở chỗ đó chứ đâu phải chỉ vì những sai lầm của Gooc – ba - chôp và sự phá hoại của các thế lực thù địch bên ngoài. Mặc dù với hơn 20 triệu đảng viên cộng sản cùng vài chục triệu đoàn viên thanh niên công-xô-môn với lực lượng quân đội và cảnh sát, an ninh hùng hậu...nhưng khi mà đại đa số nhân dân đã mất hết lòng tin, đã bất bình và quay lưng lại với đảng cầm quyền thì không có cách gì có thể cứu vãn được nữa !
Ngoài ra cũng cần phân tích thêm về bức tường Béc-lanh nổi tiếng ngăn cách 2 miền nước Đức, cũng là để ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa tư bản thâm nhập vào các nước XHCN từ phía tây, do nước Cộng hòa dân chủ Đức (Đông Đức), một nước giầu nhất trong phe XHCN làm tiền đồn. Thế mà tự dưng năm 1989 bức tường đó lại bị đổ ! Phải chăng là do các thế lực thù địch quốc tế và nhà cầm quyền Tây Đức phá để thôn tính Đông Đức ? Sự thực hoàn toàn ngược lại, chính là do nhân dân Đông Đức ngày càng bất mãn với chế độ vô sản chuyên chính mất dân chủ, đời sống ngày tụt hậu, thu nhập bình quân chỉ bằng ¼ so với Tây Đức...nên số người trốn chạy sang Tây Đức (bằng các ngả đường vòng qua các nước khác) ngày càng nhiều, số còn lại gây áp lực lớn với chính quyền đòi được tự do đi lại...buộc lãnh đạo phải nhượng bộ...thế là bức tường Béc-lanh kiên cố bị vô hiệu hóa ! nói một cách khác là từ trong nhân dân Đông Đức phá ra chứ không phải từ các thế lực thù địch bên ngoài phá vào. Đó là hệ quả tất yếu của đường lối lãnh đạo sai lầm theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin v.v...
Mặc dù với hơn 20 triệu đảng viên cộng sản cùng vài chục triệu đoàn viên thanh niên công-xô-môn với lực lượng quân đội và cảnh sát, an ninh hùng hậu...nhưng khi mà đại đa số nhân dân đã mất hết lòng tin, đã bất bình và quay lưng lại với đảng cầm quyền thì không có cách gì có thể cứu vãn được nữa !
Ngoài ra cũng cần phân tích thêm về bức tường Béc-lanh nổi tiếng ngăn cách 2 miền nước Đức, cũng là để ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa tư bản thâm nhập vào các nước XHCN từ phía tây, do nước Cộng hòa dân chủ Đức (Đông Đức), một nước giầu nhất trong phe XHCN làm tiền đồn. Thế mà tự dưng năm 1989 bức tường đó lại bị đổ ! Phải chăng là do các thế lực thù địch quốc tế và nhà cầm quyền Tây Đức phá để thôn tính Đông Đức ? Sự thực hoàn toàn ngược lại, chính là do nhân dân Đông Đức ngày càng bất mãn với chế độ vô sản chuyên chính mất dân chủ, đời sống ngày tụt hậu, thu nhập bình quân chỉ bằng ¼ so với Tây Đức...nên số người trốn chạy sang Tây Đức (bằng các ngả đường vòng qua các nước khác) ngày càng nhiều, số còn lại gây áp lực lớn với chính quyền đòi được tự do đi lại...buộc lãnh đạo phải nhượng bộ...thế là bức tường Béc-lanh kiên cố bị vô hiệu hóa ! nói một cách khác là từ trong nhân dân Đông Đức phá ra chứ không phải từ các thế lực thù địch bên ngoài phá vào. Đó là hệ quả tất yếu của đường lối lãnh đạo sai lầm theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin v.v...
T.H

 [*] Theo TS Lê Đăng Doanh Viện trưởng CIEM năm 1990: Tổng Bí thư Hô Nếch Cơ (CHDC Đức) và bạn một UVBCT có thú vui đi săn tì súng lên vai cận vệ, đến mức cận vệ đó bị điếc. Một thú vui vua chúa tái hiện vào những người lãnh đạo nhà nước XHCN.
Theo Tin tức TTXVN năm 1990, thì ông Xê au xét cu TBT ĐCS Ru Ma ni có con trai là bí thư tỉnh, cậu này có thú vui đái vào chậu ốc sên, sau đó bắt người khác luộc ăn…Đó là bệnh hoạn và tội ác của cường hào ác bá xa xưa?

Ở Việt Nam, thời trước 1989, cửa hàng Tôn Đản và Hữu Nghị (Hà Nội) bán nhu yếu phẩm cho bìa B,A, Đặng Dung bìa C,… cũng là một đặc quyền, dẫu không có gì giá trị lớn, và quá hiếm, nhưng nó đã thể hiện mầm họa của xã hội, và di chứng dịch chuyển vào lối sống hôm nay, quan chức nhà nước cố phải “đẳng cấp”, không chịu thua kém khu vực tư nhân!

Nếp sống đó thể hiện trình độ rất thấp.


([*] ngoài bài viết trên).



Phải chăng chủ nghĩa Mác - Lê-nin là “ngoại lai, bắt nguồn từ phương Tây nên không còn phù hợp với Việt Nam”
Vũ Văn Phúc - PGS. TS, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản
Thực tế lịch sử cho thấy, từ khi hình thành, phát triển và được xác lập vào cuối thế kỷ XIX, Học thuyết Mác - Lê-nin và những nguyên lý, quy luật kinh tế - xã hội mà Học thuyết đó phát hiện ra, ngày càng được chứng minh bằng thực tiễn cuộc sống, được thừa nhận rộng rãi và trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của giai cấp công nhân, là vũ khí lý luận sắc bén của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của các đảng tiên phong, chân chính của giai cấp đó ở trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam chúng ta.
Suốt hàng thế kỷ qua, nhất là mấy thập niên cuối thế kỷ XX, đặc biệt sau khi chủ nghĩa xã hội (CNXH) hiện thực ở Liên Xô và các quốc gia Đông Âu bị sụp đổ, chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã bị xuyên tạc, bóp méo một cách giáo điều hay cơ hội đủ loại. Từ đầu thế kỷ XXI đến nay, các thủ đoạn xuyên tạc, bóp méo chủ nghĩa Mác - Lê-nin lại gia tăng về quy mô, đa dạng về hình thức, nguy hiểm về tính chất và càng thâm độc về mức độ. Các thế lực thù địch âm mưu tấn công thẳng vào học thuyết khoa học và cách mạng đó nhằm hạ thấp uy tín, kể cả bôi nhọ cuộc đời riêng tư và sự nghiệp cách mạng của C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V.I. Lê-nin, thực hiện dã tâm phủ nhận, xóa bỏ toàn bộ chủ nghĩa Mác - Lê-nin trên toàn thế giới, mưu toan phá vỡ và lật đổ nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng ta. Có thể dễ dàng thấy họ đang điên cuồng bài bác, trương lên và tung hê các luận điệu rằng: “Học thuyết Mác là sản phẩm của giữa thế kỷ XIX, do vậy đem đặt nó trong bối cảnh thế kỷ XXI nếu không lạc hậu, thì cũng chẳng thể là khoa học”(!); “Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là ngoại lai, bắt nguồn từ phương Tây nên không còn phù hợp với Việt Nam”, v.v.. (!).
Nhưng, sự thật có phải như các thế lực thù địch của chủ nghĩa Mác - Lê-nin rêu rao như vậy không?
C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin là những nhà khoa học - những nhà cách mạng. Lý tưởng mà các Ông theo đuổi là khát vọng của nhân loại tiến bộ - con người được giải phóng hoàn toàn khỏi mọi ách áp bức bóc lột, được ấm no, tự do, hạnh phúc. Thử hỏi rằng, phải chăng điều thiêng liêng như vậy chỉ có phương Tây cần và lý tưởng của các Ông chỉ phù hợp với phương Tây - nơi mà chủ nghĩa tư bản đang chà đạp tinh vi, thâm độc lên số phận mỗi con người, các dân tộc? Chủ nghĩa do các Ông sáng lập và đấu tranh bảo vệ không mệt mỏi, là nhằm hiện thực hóa lý tưởng đó, trên cơ sở lịch sử cụ thể, một cách khách quan theo cái lô-gic phát triển tất yếu của nhân loại, bằng cách “giải phẫu” và biến đổi cách mạng đối với xã hội đương thời. Nói cách khác, lý luận của các Ông chỉ giúp loài người lựa chọn điều cần và phải đi con đường dẫn tới xã hội không còn người bóc lột người, với những lực lượng tiên quyết, những điều kiện có tính chất cần và đủ, khi đứng ở ngã ba lịch sử của sự lựa chọn và phải quyết định. Thử hỏi điều đó, phương Đông, nơi khi mà chủ nghĩa thực dân đang còn giày xéo lên tất cả các dân tộc, dưới gót sắt nô dịch của chúng, có cần không? hay chỉ phương Tây, nơi chính nhân dân lao động các nước tư bản chủ nghĩa (TBCN) đang bị giai cấp tư sản cầm tù, mới cần đến? 
Sự cần thiết, sự phù hợp, vai trò cơ sở, nền tảng tư tưởng lý luận, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đối với lịch sử phát triển của cách mạng thế giới và Việt Nam, có thể khái quát ở những điểm chủ yếu dưới đây:
1- Sự vận động, phát triển từ thời cổ đại đến nay của nhân loại và của lịch sử dân tộc Việt Nam là bằng chứng rõ ràng chứng tỏ rằng, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội (HTKTXH) của chủ nghĩa Mác - Lê-nin là khoa học, đúng đắn và phản ánh chính xác lịch sử vận động, phát triển tiến bộ của toàn thể nhân loại, trong đó có dân tộc Việt Nam.
Mọi người đều biết, học thuyết HTKTXH là cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin để tiếp cận nghiên cứu, giải thích, dự báo sự phát triển mang tính lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người nói chung, mỗi dân tộc nói riêng, trong đó có sự phát triển của lịch sử Việt Nam chúng ta. Học thuyết đó đã chỉ rõ: 
- Lịch sử phát triển của loài người là lịch sử phát triển và thay thế nhau của các HTKTXH, trong đó sự phát triển của các quan hệ sản xuất theo hướng tiến bộ là cơ sở hạ tầng, trên đó xây dựng nên kiến trúc thượng tầng thích hợp. 
- Lịch sử loài người đã và đang trải qua 5 HTKTXH. Đó là quy luật chung của sự phát triển của xã hội loài người; còn mỗi quốc gia dân tộc có thể bỏ qua một hình thái nào đó trong điều kiện lịch sử của thời đại và dân tộc. Việt Nam bỏ qua sự phát triển HTKTXH chiếm hữu nô lệ và HTKTXH TBCN là một thực tế lịch sử khách quan không thể phủ nhận.
Như vậy, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin không chỉ đơn thuần “giải phẫu” các HTKTXH, mà còn phân tích làm nổi bật lên bản chất và những mâu thuẫn cơ bản trong mỗi HTKTXH và cuối cùng, dự báo sự thay thế giữa các HTKTXH từ thấp lên cao hoặc tuần tự hoặc nhảy vọt một cách biện chứng, theo quy luật. Một cách lịch sử - tự nhiên, cũng như từ chế độ cộng sản nguyên thủy nhân loại bước lên chế độ chiếm hữu nô lệ rồi chế độ phong kiến tới CNTB, thì sau HTKTXH TBCN ấy phải là một HTKTXH tiến bộ hơn, đó chính là chủ nghĩa cộng sản (CNCS). Đó là cái tất yếu lịch sử hợp quy luật mà khoa học mác-xít đã chỉ ra. 
Học thuyết Mác - Lê-nin vì là khoa học và cách mạng triệt để nên nó giải quyết tất cả sự trăn trở, những yêu cầu tiến bộ của nhân loại cần lao, dù ở phương Đông hay phương Tây, như chính bản thân nó tỏa sáng. Thực tế lịch sử cho thấy, từ khi chủ nghĩa Mác hình thành, phát triển vào giữa thế kỷ XIX, hệ thống các tư tưởng, quan điểm và những nguyên lý, quy luật kinh tế - xã hội mà hệ thống khoa học đó phát hiện ngày càng được chứng minh bằng thực tiễn cuộc sống, được thừa nhận rộng rãi và trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của giai cấp công nhân toàn thế giới, là vũ khí lý luận sắc bén của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên các châu lục và của các đảng tiên phong, chân chính của giai cấp đó, không kể ở Việt Nam hay bất cứ quốc gia, dân tộc nào hay ở châu lục nào.
Ai cũng có thể thấy, ngay từ khi mới chỉ là một “bóng ma” ở châu Âu CNCS khoa học đã được thực nghiệm bằng những cuộc cách mạng vô sản, nổ ra và thành công, chính quyền công nông được xác lập trong thực tiễn, CNXH hiện thực đã tồn tại với tư cách là một hệ thống cùng tất cả tính ưu việt và sức sống mãnh liệt của nó trên thế giới. Nó là linh hồn của các phong trào tiến bộ, giúp các dân tộc đập tan chủ nghĩa phát-xít, giải phóng khỏi chủ nghĩa thực dân cũ và mới, giành độc lập dân tộc, dân quyền và tự do cho toàn thể nhân loại cần lao, chứ đâu của riêng phương trời nào. 
C. Mác là nhà khoa học thiên tài và cách mạng triệt để nhất đã vạch trần một cách chính xác bản chất bóc lột của chế độ tư bản là bóc lột giá trị thặng dư - thủ phạm cầm tù nhân dân lao động dù ở chính quốc hay thuộc địa của giai cấp tư sản, kẻ chà đạp lên độc lập tự do của các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Bản chất bóc lột của CNTB vẫn không thay đổi, bản chất phản động toàn diện của nền chính trị tư sản hiện đại vẫn tồn tại, bản chất mâu thuẫn, khủng hoảng và xu hướng diệt vong tất yếu của CNTB vẫn là vấn đề thời sự của không chỉ thời C. Mác sống và ngay cả tới tận ngày nay. V.I. Lê-nin chỉ rõ: “Học thuyết của Mác là học thuyết vạn năng vì nó là một học thuyết chính xác(1). Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chủ nghĩa Lê-nin... không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”(2). 
Thế nhưng, các quan điểm sai trái và phản động lại vin vào việc mô hình CNXH ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ để hô hoán lên rằng, “chủ nghĩa Mác đã thất bại”(!). Và, hôm nay, lại chính họ đã tự phơi bày một lối hiểu “trích cú”, “tầm chương”, phiến diện và phản khoa học về chủ nghĩa Mác, khi CNTB đang vùng vẫy trong vũng lầy khủng hoảng, như theo dự báo của C. Mác và khỏa lấp sự tráo trở đó nhân sự thăng trầm của CNXH. Những “lý sự” của họ không thể đánh lừa được ai. Lương tri của nhân loại vẫn rất tỉnh táo và sáng suốt khi đánh giá rằng “chủ nghĩa Mác vẫn giữ nguyên ý nghĩa và tầm quan trọng của nó trong thế giới hiện đại...”(3), “vẫn luôn luôn là một căn cứ quyết định cho các tổ chức cách mạng của giai cấp công nhân quốc tế, cho các đảng cộng sản chân chính đề ra đường lối chiến lược, sách lược cách mạng của mình”(4). Nó đánh dấu sự phát triển trí tuệ của nhân loại trong thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH. Hơn nữa, chính những người thóa mạ và bôi nhọ C. Mác, cố tình không hiểu rằng, CNXH ở Liên Xô và Đông Âu (trước đây) sụp đổ không phải vì tư tưởng khoa học của học thuyết Mác - Lê-nin không còn tính thời đại, mà là sự phá sản của một đường lối sai lầm, chẳng những sa vào quan liêu hóa, giáo điều, chủ quan, duy ý chí bắt đầu từ sai lầm trong xây dựng đường lối lãnh đạo của Đảng cầm quyền ở đó, do đi chệch khỏi chủ nghĩa Mác - Lê-nin chân chính, mà còn là sự xét lại và phản bội chủ nghĩa xã hội khoa học; đồng thời không thể không kể đến những âm mưu thâm độc trong chiến lược “diễn biến hòa bình” mà chính chủ nghĩa đế quốc quốc tế sử dụng. Kẻ thù của các đảng cộng sản đã lợi dụng triệt để những sai lầm trong đường lối, những khiếm khuyết không được khắc phục kịp thời trong lãnh đạo và điều hành đất nước của các đảng ở các nước đó... để mua chuộc, kích động và cổ vũ những phần tử cơ hội bên trong, khuyến khích những hành động phản cách mạng bên ngoài. Kẻ thù của C. Mác đổ tội tất cả điều đó cho C. Mác, cho chủ nghĩa Mác - Lê-nin (!). 
Nếu ai còn hồ nghi về điều đó, xin hãy đọc thêm trang htpp://vi.Wikipedia.org/wiki/KarlMacx: Năm 1999, Trường Đại học Cam-brit (Anh) công bố bình chọn nhà tư tưởng số một thiên niên kỷ thứ 2, kết quả là C. Mác đứng đầu, A. Anh-xtanh - nhà khoa học lớn, đứng thứ 2. Và mới đây, theo thăm dò của tờ Tạp chí Spiegel (Đức), C. Mác được ưa chuộng một cách ngạc nhiên - hơn 50% số người dân Đức nói rằng, “sự phê phán của C. Mác đối với chủ nghĩa tư bản ngày nay vẫn giữ nguyên giá trị”, và thậm chí hơn 56% cho rằng, “chủ nghĩa xã hội là một tư tưởng hay nhưng thực hành tồi”; và C. Mác trong giới trẻ còn nhận được sự đồng tình cao hơn nữa. Và, theohttp://ww.guardian.co.uk/politics/jul/17/comment.theo bserverl, nhà tỷ phú đầu cơ chứng khoán G. Sô-rốt viết: “C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã cho một phân tích rất tốt về hệ thống tư bản từ cách đây 150 năm”. Rồi, ngay tờ The New Yorker (Mỹ) cũng cho rằng, các nhà kinh tế học hiện đại đang “bước theo dấu chân của C. Mác mà họ không biết”, trong quá trình giải quyết các vấn đề mà họ phải đối mặt, bởi chưng lại theo tờ Tạp chí Newsweek (Mỹ), C. Mác “đã mổ xẻ cái hệ thống trục lợi này tốt hơn ai hết... Như thể C. Mác đã đội mồ đứng dậy!”. Và thực tế đang chứng minh rằng, chính bản thân CNTB dù ở phương Đông hay phương Tây (từ Nhật Bản tới Tây Âu rồi Mỹ...) cũng đã và đang vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin nhằm điều chỉnh, thích nghi để tồn tại đó thôi.
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã, đang và mãi mãi dẫn dắt cách mạng Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam, vì chủ nghĩa xã hội, vì lý tưởng góp phần giải phóng toàn thể nhân loại cần lao, như bất cứ ai không thể không thấy!
2- Chủ nghĩa Mác - Lê-nin chỉ ra quy luật khách quan của quá trình ra đời, phát triển của CNXH, CNCS; đồng thời cũng chỉ ra điều kiện chủ quan quyết định của quá trình đó là: lý luận tiên phong và đảng tiên phong của giai cấp công nhân. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C. Mác - Ph. Ăng-ghen đã nêu rõ tư tưởng về điều kiện để giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động là phải có “đội tiên phong với lý luận tiên phong và hành động tiên phong”. C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã ghi rõ rằng, những người cộng sản tuyệt nhiên không có lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản. Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất..., là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên; về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là, họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản. 
Trong tác phẩm “Làm gì?”, V.I. Lê-nin đã khẳng định: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”(5); “chỉ đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong”(6).
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện, giáo dục, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng chính trị, kim chỉ nam cho hành động cách mạng, là minh chứng thuyết phục nhất chứng tỏ rằng, học thuyết Mác - Lê-nin đã thực sự đóng vai trò lý luận dẫn đường cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Phát huy truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, các tầng lớp nhân dân Việt Nam đã đứng lên chống quân xâm lược hơn nửa thế kỷ, nhưng đã không thành công. Đầu thế kỷ XX phong trào yêu nước theo khuynh hướng tư sản cũng lần lượt thất bại. Đất nước như không có đường ra. 
Năm 1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành, với tên anh Ba ra đi tìm đường cứu nước. Sau 10 năm (1911 - 1920) bôn ba khắp các châu lục vừa nghiên cứu lý luận, vừa nghiên cứu thực tiễn cách mạng trên thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã đi đến kết luận: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức”. Tiếp đến Người phải qua 10 năm chuẩn bị trên cả ba phương diện: tư tưởng lý luận, đường lối chính trị, tổ chức cán bộ để đưa tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày 3-2-1930). Nói về vai trò của Đảng Cộng sản và lý luận, trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” xuất bản năm 1927, Nguyễn Ái Quốc trích câu nói nổi tiếng của V.I. Lê-nin trong tác phẩm “Làm gì?” và Người đặt câu hỏi: “Cách mệnh, trước hết phải có cái gì?”. Và Người trả lời rõ rằng: “Trước hết phải có Đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành công... Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm nòng cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. 
Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin”(7). 
Trong bài nói chuyện với lớp bồi dưỡng đảng viên mới do Thành ủy Hà Nội tổ chức năm 1966 Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định: “Không có lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học thì không thể có lập trường giai cấp vững vàng. Vì vậy, các cô, các chú phải chịu khó học tập lý luận Mác - Lê-nin, học tập đường lối, chính sách của Đảng; đồng thời phải học tập văn hóa, kỹ thuật và nghiệp vụ”(8).
Trong những năm cuối đời, khi viết Di chúc, Bác Hồ tiếp tục khẳng định rõ tư tưởng về vai trò của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và của Đảng Cộng sản.
3- V.I. Lê-nin kế thừa, phát triển và vận dụng sáng tạo học thuyết của C. Mác vào thực tiễn cách mạng ở Nga và thế giới, trên cơ sở đó đề ra học thuyết về cách mạng XHCN trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa. 
Trên cơ sở những nghiên cứu, phân tích về chủ nghĩa đế quốc (CNĐQ), V.I. Lê-nin phát hiện ra quy luật phát triển không đều về kinh tế và chính trị của CNTB trong thời kỳ CNĐQ và đi đến kết luận: cách mạng vô sản có thể thắng lợi ở một số nước hay thậm chí ở một nước riêng lẻ, nơi CNTB chưa phải là phát triển nhất, nhưng là khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền TBCN. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã chứng minh cho điều đó. Đồng thời, V.I. Lê-nin đã đưa ra luận thuyết khoa học và cách mạng về sự quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. 
Hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, Việt Nam chuyển lên tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc (từ năm 1954) và trên quy mô cả nước (từ năm 1975). Thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất Tổ quốc, cả nước cùng quá độ lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua giai đoạn phát triển CNTB, là bằng chứng thực tế đầy thuyết phục chứng tỏ rằng, học thuyết của V.I. Lê-nin về cách mạng XHCN trong thời đại đế quốc chủ nghĩa là hoàn toàn đúng đắn, có cơ sở lý luận khoa học, cơ sở thực tiễn, phản ánh chính xác những nét lớn, cơ bản của thực tiễn lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XX và cả hiện nay.
4- Những thành tựu có ý nghĩa lịch sử, mang tính bước ngoặt, đặc biệt là những thành tựu của gần 30 năm đổi mới mà Việt Nam đã đạt được, một phần rất quan trọng là do Đảng, Nhà nước ta đã vận dụng sáng tạo những tư tưởng, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trong đó có Chính sách kinh tế mới (NEP) của V.I. Lê-nin trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Như vậy, với NEP, V.I. Lê-nin đã khẳng định rằng, đi lên CNXH không phải là xóa bỏ kinh tế thị trường, mà phải sử dụng kinh tế thị trường; nhưng không phải là thị trường tự do cạnh tranh TBCN, mà có sự điều tiết của nhà nước; không phải là nền kinh tế của một thành phần kinh tế độc tôn, mà là nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu,...
Sự vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lê-nin, cụ thể là NEP của V.I. Lê-nin vào hoàn cảnh, điều kiện Việt Nam được thể hiện đặc biệt rõ nét trong quan điểm, chủ trương của Đảng ta về phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
5- Những thành tựu mà Việt Nam đạt được trên mặt trận đối ngoại, một phần rất quan trọng là do chúng ta biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nhất là trong thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trên thế giới, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, phát triển bình đẳng, tiến bộ của các quốc gia dân tộc. Xét về bản chất, đường lối đối ngoại trên đây của Việt Nam chính là sự vận dụng sáng tạo của Đảng, Nhà nước ta quan điểm của V.I. Lê-nin về “cùng tồn tại hòa bình” giữa các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, vào bối cảnh trong nước và quốc tế mới hiện nay. 
Như vậy, với những phân tích trên đây làm sao có thể nói rằng, chủ nghĩa Mác - Lê-nin là “xa lạ”, là “không phù hợp” với Việt Nam được (!).
Từ những phân tích trên đây, có cơ sở để khẳng định:
Thứ nhất, học thuyết Mác - Lê-nin có sức sống mãnh liệt và có giá trị thời đại, bởi vì đây là học thuyết khoa học và cách mạng. Học thuyết đó là cơ sở thế giới quan, cơ sở phương pháp luận khoa học của nhân loại và gợi mở cho sự nghiên cứu tiếp tục trong tương lai của loài người. Học thuyết Mác - Lê-nin, cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh, thực sự trở thành nền tảng tư tưởng lý luận, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng ta trong lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN
Thứ hai, là học thuyết khoa học và đúng đắn, nhưng học thuyết Mác - Lê-nin cũng là sản phẩm của thời đại, của hoàn cảnh lịch sử nhất định, nên không thể đưa ra những giải đáp đầy đủ, chi tiết, cặn kẽ mọi vấn đề, ở mọi thời đại, của mọi quốc gia. Do vậy, cần phải xem học thuyết Mác - Lê-nin là học thuyết mở, phải được bổ sung, phát triển không ngừng cùng với tiến trình phát triển tri thức, khoa học, thực tiễn của nhân loại. Khi vận dụng các nguyên lý cơ bản của học thuyết đó, nhất thiết phải dựa vào điều kiện lịch sử - cụ thể của từng nước để vận dụng một cách sáng tạo. Những thắng lợi mang tính lịch sử của cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng Cộng sản lãnh đạo là minh chứng thuyết phục nhất về sự vận dụng sáng tạo và sự đóng góp cho phát triển học thuyết Mác - Lê-nin của Đảng ta, của nhân dân ta.
Thứ ba, vận dụng lý luận vào thực tiễn là con đường cam go, khúc khuỷu, phải có cơ chế thích hợp và đòi hỏi thái độ khách quan, khoa học, trung thực thì mới thành công.
Những kết luận rút ra trên đây cũng hoàn toàn đúng với việc nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lê-nin ở Việt Nam chúng ta.
Ở Việt Nam, kể từ “Đường kách mệnh” do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo và Luận cương chính trị do Hội nghị Trung ương tháng 10-1930 thông qua cho đến nay, Đảng ta đều khẳng định chủ nghĩa Mác - Lê-nin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng. Từ Đại hội VII đến nay có sự bổ sung mới: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng của Đảng...”. Ngay từ năm 1991, Đại hội VII đã khẳng định: “...tư tưởng Hồ Chí Minh chính là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong điều kiện cụ thể của nước ta, và trong thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và của cả dân tộc; Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân trọn vẹn nhất cho sự kết hợp đó, là tiêu biểu sáng ngời cho sự kết hợp giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội”(9). 
Bước vào thế kỷ XXI, sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, xu thế toàn cầu hóa với xung lực là kinh tế tri thức đang tiến với tốc độ “một ngày bằng cả trăm năm” đã và đang đặt ra trước toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta những trọng trách mới, ngày càng to lớn, phức tạp và khó khăn hơn. Nói cách khác, khi lịch sử thế giới bước vào thời kỳ phát triển mạnh mẽ, hơn bao giờ hết, hàng loạt vấn đề vừa có ý nghĩa chiến lược, vừa cơ bản, vừa cấp bách đặt ra mệnh hệ tới tương lai của dân tộc đang đòi hỏi Đảng ta phải tìm câu trả lời cấp bách, trong lúc những vấn đề mới mẻ và khó khăn ấy, mà sinh thời các nhà kinh điển không và không thể để lại một lời chỉ dẫn nào cụ thể cả. 
Cố nhiên, như trên đã trình bày, chúng ta không thể phủ nhận một điều là, những thập niên 70, 80, nhất là đầu những năm 90 của thế kỷ XX, trong quá trình hiện thực hóa lý luận mác-xít đó, những người cộng sản gặp phải khó khăn to lớn. Đặc biệt, khi lịch sử phát triển nhân loại ở vào tình thế có tính bước ngoặt, khi xu thế toàn cầu hóa trở thành phổ biến với những xung lực mạnh mẽ, công việc đó càng trở nên khó khăn gấp bội. Giai cấp công nhân mà đứng đầu là đảng cách mạng của nó đã, đang và tiếp tục đủ sức gánh vác trọng trách đó của lịch sử XHCN, khi biết dựa vào sự chỉ dẫn của lịch sử phong trào XHCN, biết cách vượt lên những thách thức “mất, còn” của thời đại và điều cơ bản, có ý nghĩa quyết định nhất là phải biết trở về với chủ nghĩa Mác - Lê-nin một cách kiên định và sáng tạo. 
Do đó, trong công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, chúng ta càng phải trở về với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách trung thành và sáng tạo. Nguyên tắc bất di bất dịch là, cần nghiên cứu và thấu triệt nó với tư cách không chỉ là nền tảng lý luận chính trị về phương diện chính trị - xã hội, một cương lĩnh chính trị - khoa học về mặt hành động cách mạng, một chỉnh thể toàn vẹn về mặt cấu trúc hệ thống, một thực thể vận động và thống nhất trên bình diện khoa học - thực tiễn mà còn là một lý thuyết - thực tiễn mở về phương diện xã hội - lịch sử và là một tổng thể phương pháp luận khoa học và cách mạng, như chính bản thân học thuyết Mác - Lê-nin chứa đựng và thể hiện.
Qua thử thách và sự kiểm nghiệm của thực tiễn lịch sử, điều ngày càng sáng tỏ là, do sự kết tinh những tư cách và phẩm chất đó, chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tự nó đã là một khoa học mang tính cách mạng sâu sắc. Vì, nó là học thuyết không chỉ nhằm giải thích thế giới mà quan trọng hơn là, nhằm cải tạo thế giới. Nói cách khác, chủ nghĩa Mác - Lê-nin tuyệt đối không phải là thứ khoa học tự thân mà là khoa học về cách mạng, khoa học của thực tiễn và vì thực tiễn lịch sử cách mạng nhằm tới mục tiêu giải phóng con người khỏi sự chế ngự bởi “vương quốc tất yếu”, để bước tới “vương quốc tự do”. Vì thế, tự nó hàm chứa khả năng tự phát triển, tự sáng tạo không ngừng, thông qua cách mạng. Nói kiên định với chủ nghĩa Mác - Lê-nin cũng chính là phải không ngừng phát triển nó bằng thực tiễn cách mạng sáng tạo; đồng thời, tỉnh táo chống lại một cách kịp thời và hiệu quả mọi biểu hiện của chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cơ hội và chủ nghĩa xét lại làm vấy bẩn, méo mó và xuyên tạc nó. 
Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu, phát triển học thuyết Mác - Lê-nin thực chất là nghiên cứu, phát hiện và tổng kết những vấn đề mang tính quy luật, những quy luật của sự vận động xã hội một cách tổng quát, có tính chất chung nhất, mang tính tất yếu nhưng lại được hàm chứa và được thể hiện sinh động ở những thời kỳ lịch sử cụ thể, nhất định, xét trong toàn bộ tiến trình phát triển lịch sử - tự nhiên của nhân loại, vì sự sống còn và phát triển của CNXH trong thế kỷ XXI. 
Theo đó, thực chất của toàn bộ việc nghiên cứu lý luận chính trị của chúng ta là nhằm mục tiêu góp phần xác lập một đường lối chính trị độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo dẫn dắt, chỉ đạo thắng lợi công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng ở nước ta hiện nay trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng trên bình diện thực tiễn, không phải cứ nói tới định hướng XHCN trong công tác nghiên cứu lý luận chính trị là khắc có lý luận đúng đắn về sự nghiệp xây dựng CNXH, cụ thể hơn là đường lối chính trị xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc đúng đắn. Bởi lẽ, một mặt, về phương pháp luận, có định hướng tất có chệch hướng, xét cả trên bình diện vĩ mô lẫn mức vi mô, cả ở quy mô mang tính toàn cục lẫn bộ phận; mặt khác, về tổ chức thực tiễn, tự nó đã chứa đựng sự bất cập kép: hoạch định đường lối chính trị sai quy luật và tổ chức thực thi đường lối chính trị một cách lệch lạc. Trong quá khứ, những sai lầm về thực tiễn đã chứng tỏ cả hai điều này. Bởi vậy, ngay tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994), Đảng ta đã cảnh báo và đặc biệt lo lắng về nguy cơ chệch hướng XHCN, coi đây là nguy cơ đứng hàng thứ nhất trong bốn nguy cơ, trên cả hai bình diện hoạch định đường lối và tổ chức thực tiễn đường lối chính trị của Đảng. 
Nói như vậy để phải ý thức sâu sắc rằng, vấn đề giữ vững định hướng XHCN trong nghiên cứu lý luận chính trị trên nền tảng học thuyết Mác - Lê-nin có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, quyết định sự thành bại của Đảng ta, của sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta hiện nay và của dân tộc, của đất nước trong tương lai. Đó là bài học thành hay bại của chúng ta trong thực tiễn xây dựng CNXH mấy thập niên vừa qua; cũng là bài học thất bại của các đảng cộng sản cầm quyền tại các nước XHCN ở Liên Xô và Đông Âu trong thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, khi chệch hướng hay lạc hướng về mặt kiến tạo đường lối chính trị, rộng hơn là lý luận chính trị. Chính từ sự phát triển phức tạp và khó khăn của thực tiễn cách mạng cho thấy, không gì có thể thực tiễn hơn, khi chúng ta có một lý luận khoa học và cách mạng dẫn đường. Ở đâu và lúc nào công tác lý luận không được coi trọng đúng mức thì ở đó và lúc đó xảy ra tình trạng khủng hoảng lý luận và lý luận tụt hậu; theo đó, công tác tổ chức thực tiễn sẽ hết sức chệch choạc, thậm chí gặp khó khăn và đổ vỡ. Thực tiễn xác nhận, chỉ có xuất phát từ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tổ chức tốt thực tiễn, kịp thời và thường xuyên tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng là con đường duy nhất đúng để phát triển và bảo vệ lý luận cách mạng mới tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng không ngừng tiến lên. 
Đó chính là mục đích, con đường, môi trường, là bước đi, thước đo hiệu quả, là thách thức, vận hội phát triển và là chân trời của sự sáng tạo của công tác lý luận hiện nay nhằm xây dựng và phát triển nền tảng tư tưởng chính trị dẫn dắt sự nghiệp đổi mới xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam đi tới tương lai; đồng thời, xác nhận thái độ, bản lĩnh, năng lực và đạo lý của chúng ta đối với học thuyết mác-xít.
Bởi, xét cho cùng, toàn bộ công tác lý luận của chúng ta, về thực chất, là nhằm tới mục đích xây dựng một đường lối chính trị độc lập, tự chủ và sáng tạo về lý luận của Đảng để chỉ đạo thắng lợi công cuộc xây dựng CNXH trên đất nước ta, theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Lịch sử Đảng ta hơn 84 năm qua xác nhận: do kiên định và vận dụng linh hoạt, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó tìm đúng bản chất, quy luật vận động đặc thù của xã hội Việt Nam và xu thế vận động tất yếu của thời đại; đồng thời, đấu tranh một cách kiên quyết chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa cơ hội..., Đảng ta đã xây dựng thành công một đường lối cách mạng độc lập, tự chủ và sáng tạo của cách mạng nước ta. Ở tầm vĩ mô, công tác lý luận đã góp phần quan trọng trong việc kiến giải hàng loạt vấn đề khoa học - thực tiễn rất cơ bản và quan trọng, tiếp tục đưa đất nước vượt qua những khó khăn, thử thách tiếp tục phát triển trên con đường XHCN, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là những vấn đề về đặc điểm và nội dung của thời đại ngày nay; về mô hình và con đường XHCN ở Việt Nam; về sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; về phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN; về chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế; về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; về xây dựng Đảng ngang tầm sự nghiệp đổi mới đất nước,... Tất cả sự nỗ lực đó của công tác lý luận đã trực tiếp góp phần làm cho “con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn”, đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng kéo dài suốt hai thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, bước vào thời kỳ phát triển mới ở thế kỷ XXI với thế và lực mới, với một gia tốc mới, như bất cứ ai đều thấy. 
Đó chính là một trong những bài học lịch sử vô giá làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam, góp phần vào sự phát triển sáng tạo và bảo vệ thành công chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trên cơ sở bảo đảm sự thống nhất giữa lý luận cách mạng và thực tiễn cách mạng nhằm vừa nâng cao trình độ lý luận, vừa đẩy mạnh năng lực tổ chức thực tiễn cách mạng./.
                                                                 -----------------------------------

(1) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 23, tr. 50
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t. 10, tr. 128
(3) Đánh giá của Đại hội Mác quốc tế họp ở Pa-ri từ ngày 27 đến 30-9-1995 nhân kỷ niệm 100 năm chủ nghĩa Mác với 500 đại biểu của gần 100 viện nghiên cứu, tạp chí mác-xít và 30 trường đại học từ 22 nước trên thế giới (xem: Tạp chí Cộng sản, số 9, 5-1996)
(4) Đánh giá của Tuần báo Giải phóng, ngày 7-7-1995, tiếng nói của hàng vạn chiến sĩ cách mạng các nước Mỹ La-tinh, cư trú ở Thụy Điển (xem: Tạp chí Cộng sản, số 1, 1-1996)
(5), (6) V.I. Lê-nin: Sđd, t. 6, tr. 30, 32
(7) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 2, tr. 267 - 268
(8) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 12, tr. 92
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 127 - 128