Thứ Hai, 21 tháng 10, 2013

1. TRUYỆN SƠN TINH -THỦY TINH

1.    Thuở hỗn mang, thiên hà như nồi cháo lớn, sau đó sinh thái cực, lưỡng nghi, sinh tứ tượng, thành bát quái. Đất được ở riêng có núi rừng, đồng ruộng, sông hồ xen giữa, muông thú phân chia loài. Nước sống riêng có dòng chảy, biển  xanh bao la thông với sông hồ, có thủy sinh đa dạng. Trời của chung, cao xanh, mây, trăng sao, ánh dương rực rỡ… đất có thổ công, sông có hà bá, trời có thần thiêng, duy nhất chỉ còn con tôm dưới nước còn dấu ấn hồng hoang lộn ở trên đầu, vì vậy thịt nó là món ăn tăng trí khôn cho nhân loại. Khoa học của các nước G7 và nền công nghiệp giàu có của họ đã biết rõ tác dụng của tôm, vì thế tôm chiếm đến trên 60% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu thủy sản của thế giới, chủ yếu đưa vào miệng dân các nước G7. Người ta phải nuôi nhiều tôm hơn nữa để đáp ứng các G8, G9 và G11 sau nữa của nền kinh tế trí thức, đưa bột tôm vào óc thay cho bột đậu dư thừa.
       Con tôm đã biết rõ chuyện tình Sơn Tinh-My Xinh và Thủy Tinh. Câu chuyện dự thảo lần đầu theo trí nhớ của một người ở nước G1, đã được ăn tôm từ trong bụng mẹ, chuyện như  sau:
       Không chịu cảnh “ta về ta tắm ao ta”, chàng Thủy Tinh chán cảnh hôn nhân biển cả, không ưng các nàng tiên cá xinh đẹp nhõng nhẹo. Sớm hôm chàng lên bờ biển chơi và gặp My Xinh con gái Thổ Thần cũng hay dạo chơi trên biển. Bờ biển nơi phân thủy âm dương, nơi giao lưu đất- nước - trời (Thổ-Thủy-Thiên). Chàng lân la chuyện trò, tặng em My Xinh  vô số ngọc trai, vỏ sò và cả hải sâm, cá ngựa, sao biển, đặc sản cho nàng My Xinh mang về biếu vua cha Thổ Thần. My Xinh yêu thích chàng như muôn chuyện tình cỏ cây, hoa lá cần ánh sáng, đất, gió mưa, khí tiết thuận hòa.
       Gặp nhau vội vã, chia tay lặng lẽ, Thủy Tinh lặn xuống biển sâu để lại trong lòng My Xinh nỗi chờ mong thắc thỏm. Những hôm biển động nàng nhìn khơi xa chờ đợi, cũng có ngày mưa lũ dâng lên rút xuống rất nhanh thì chàng Thủy Tinh lại vội đến bên cửa sổ Đông cung, áo quần chàng ướt sũng, đôi mắt trong sáng đặt vào cặp mắt ngây thơ tin yêu của My Xinh, tay chàng ôm giỏ quà tặng nàng những đồ biển yêu thích, nào là hoa biển, ngọc trai, lược đồi mồi, vòng đá quý ở độ sâu 8111 mét… nàng xếp đầy tủ kính, mang tặng bạn bè ngày sinh nhật, đem đổi bán ngoài hiệu kim hoàn để ăn tiêu, nộp tiền học thêm cho thầy phù thủy dạy con nhà trọc phú.
       Một hôm, sau bước dạo, bước chạy đuổi nhau trên bờ cát, họ lưu luyến chia tay dưới  ánh trăng mộng mơ, cả hai cười đùa viết những ký tự tình yêu vô tư trên cát trắng thì có tiếng cá quẫy mạnh. Nàng tiên cá hiện lên bên hai người:
       - Cô này là ai? Sao anh có thể từ bỏ lời nguyền của biển cả, sao anh có thể bỏ em đi với người của Thổ Thần, anh không sợ vua Thủy Thần trừng phạt?
       - Em về đi, anh về ngay, có đêm nào anh không ngủ ở xứ thủy thần, chúng ta không  thể ở lâu trên cạn.
       - Nhưng anh có thể biết bí quyết sống lâu trên cạn như bọn khủng long đã lên bờ tiến hóa thành thú dữ.
       - Anh không biết, có chăng chỉ em My Xinh đây dạy cho anh.
       Tiên cá giận dữ, vẫy vùng tung cát, túa nước lặn nhanh xuống biển sâu trong sự ngỡ ngàng đến hoảng sợ của My Xinh. Nàng ôm chặt lấy Thủy Tinh vì chẳng còn biết ôm vào đâu trên bãi cát trắng mênh mông đầy trăng và gió.
       Họ cứ  thế đến khi trăng tà trên biển, tiếng chuông chùa của sư già khó ngủ dóng dả sang canh. Hơi ấm, mùi thơm tình yêu của My Xinh đã làm cho Thủy Tinh sống lâu hơn trên cạn. Bất ngờ có tiếng ngựa hý, quân hô hét, đuốc sáng rực làm cả hai bừng tỉnh. Thủy tinh vội về biển cả, My Xinh lội nước tiễn chàng, ướt hết cả váy dài. Quân lính do Sơn Tinh chỉ huy đã đến bắt nàng lên kiệu về cấm cung. Từ đó My Xinh bị giám sát chặt chẽ, đi đâu có người kèm, Sơn Tinh được vua Thổ Thần giao việc đó cùng với ý thử thách phò mã tương lai với hy vọng trị thủy.
        2

Chủ Nhật, 20 tháng 10, 2013

Thư Xuân Hương hóa vàng gửi Chiêu Hổ (tiếp theo và hết)


Chiêu Hổ thân mến! 

Thế là Xuân Hương đi bước nữa, để mai mốt hồi xuân có mụn con kiêu ngạo, chia của nhà Tổng cóc. Duyên bén những ngày Tổng cóc gánh bạc, dựng lều, mài mực thi kiếm chút danh. Kinh thành bao dung ngưỡng mộ người tài đức, giàu có, cực nhọc kiếm ăn. Có học có hơn, Tổng cóc thổ nha ham hố phải thành một chức quan cai kho, phát chẩn.
Ngoài ba mươi cái xuân xanh hai đời chồng đã đời lắm lắm. Xuân Hương phận gái cần chốn nương thân, cần nơi bảo kê cho đường thi phú, nương tựa lầu son, nuôi gái lầm than kiếm ăn Cổ nguyệt Lầu.

Năm xưa dưới Phủ Vĩnh Tường cao sang mà bất hạnh, kiếp chồng chung cô quạnh những đêm dài. Quan phủ cần Xuân Hương tân trang thói phàm tục xứ mờ xa. Bà cả, bà hai chiếm chồng hàng đêm,sáng ra tóc bù, áo váy nhàu nhĩ, mặt tươi nham nhở cười ô uế vào Xuân Hương. Họ có cái quyền, có mẹo phàm dâm mà XH không có! Bù lại quan phủ cho Xuân Hương dự thăng đường mưu vài vụ xét tra, cùng những bữa nhậu hầu quan triều tuần du kiếm tìm thú lạ.

Lần này lấy Tổng cóc, XH không ở quê chàng, mà ở Kinh giúp chàng mưu sinh quan lộ.

Chiêu Hổ ơi, chàng đã lớn, danh đã thành sao chưa ngon bề gia thất, giữ tấm thân nguyên vẹn làm gì trong đời mưa gió tả tơi. Cũng phải thôi thưa người con trai sư ông một lần phá vận, một đêm thu đổ đốn ni cô, trăng vỡ nát ở vườn chùa sinh ra thằng người gọi là Chiêu Hổ! Chàng định tu hành kiếp quan Phật quên kiếp phàm trần? Ôi!XH khát thèm một tấm thân, một tấm tình,một con người như Chiêu Hổ. Bát nước đổ đi rồi, hai đời chồng càng mộng trai tân! Sao lại không khi bao đàn em Cổ nguyệt lầu đã hy sinh đời con gái, hầu đám quan chức trọng, tiền nhiều. Sao lại không khát vọng tình yêu trong trắng, dẫu tay có bị quệt chàm vẫn gột rửa bằng nước Hồ Tây!

Cổ nguyệt Lầu có hai người muốn đốt.Một Tổng cóc hợm của khát tình.Một cựu binh phường Khán Xuân một thời chiến chinh cùng Chiêu và đồng đội, họ không muốn nước Tây Hồ ô uế súc sinh, họ không chịu được những chiếc thuyền làm tình xả rác, họ tín ngưỡng tâm linh nên quyết đốt Cổ nguyệt Lầu.

Chính tay Xuân Hương phóng hoả, phá đi những mong xây lại đàng hoàng. Tổng Cóc về Kinh được  vua ban thái ấp, Xuân Hương lại dựng lầu mua bán những thú vui. Đường Liễu Giai xanh cây, có chùa thiêng phù hộ.

Chiêu Hổ này, Xuân Hương xa chàng, thời gian như sói nuốt, cuộc tình nào cũng hết, cuộc đời nào cũng qua. Mến yêu một thuở học trò, mến yêu một thời làm bạn tình thơ với chàng.

Chuyện cùng Xuân Hương trên Kinh thành yêu dấu.

Xuân Hương


Chúng ta mãi mãi kiếp cô hồn (Hồn Chiêu, 2008 gọi Xuân Hương)


Năm Tuất đầu thiên niên kỷ thứ 3 theo Tây lịch
XH thân mến!

Thế là chúng mình đã thoát khỏi địa ngục và trần gian, những tưởng phần hồn bay trong trời xứ sở được tự do hành lạc. Nhưng không. Ở đâu cũng có Luật, nếu chúng mình phạm thì sẽ mất suất hương thơm xôi oản Tết nhất,một rằm, lễ lạt kỷ niệm ngày chiến thắng đội quân ô hợp của lão Tôn, cho những cô hồn đông hơn mản.

Nghĩ mà ghen với mấy danh sỹ cùng thời, họ có tác phẩm để đời nên năm chẵn được kỷ niệm trọng thể, mộ mả, bia tượng thơm hoa, ấm nhang khói, tên tuổi văn chương được xướng lên không biết đến bao giờ. Trong số những áng văn đó họ đạo khá nhiều của đời! XH còn nhớ những lời dân ca ven hồ dân chài cá, nông phu ca hát đã được họ mông má đôi từ kê-gà, chó -khuyển, nhà thổ-lầu xanh thành tuyệt tác văn chương. Không có họ thì dân ca đó có thể bị phàm đi. 

Chuyện văn chương của chúng ta ngày ấy đã là huyền thoại, năm tháng qua đi, cát bụi mịt mờ, mây trắng bay tam sao thất bản thất truyền có sao đâu, âu cũng là những lời quê, ngõ phố chúng ta chắp nhặt lên. Chất kết dính dân gian (bây giờ họ gọi là Fon-cơ- lo) như nhựa mít bắt chuồn chuồn, như keo “con voi” không dùng hoá chất độc gắn hạt điều vụn thành lành xuất khẩu chẳng ai chê! Con rắn thật cõng hai con rắn nhựa thành “tam xà đại hội” bình rượu nàng Vân vẫn mềm môi, ngọt giọng.

Đã gần hai thế kỷ sống kiếp cô hồn để chúng mình về với muôn dân nhìn hạt gạo trắng tinh, hạt muối tan vào đất mà không còn nước mắt khóc yêu đời.

Chao ôi! đã xa lắm rồi mà sao mỗi góc phố Kinh thành, bến nhỏ Tây Hồ hương cốm vẫn như xưa. Hôm CH ngụ trên cây gạo cùng đám cô hồn đang nồng giấc ban trưa chợt thấy cặp gái trai sao giống ngày chúng ta trên trần thế. Họ tình tứ đáng yêu, cô gái lấy tay ray ray môi chàng trai và bị cắn hay mút, tiếng cười không đủ thức đám cô hồn chỉ cần chút hương tàn miếu hoang là ngon giấc. CH mơ màng về ngày xưa cũ. Hai trăm năm hay nghìn năm, mãi mãi tình yêu trai gái là món ăn khát thèm kiếp dương gian.

Hai trăm năm, dân Phường Khán Xuân tăng 200 lần, ngày ông Tú Xương cảnh báo nạn nhân mãn dân số mới chỉ bằng 1/5 bây giờ, tình yêu của chúng ta đa phần hướng về tăng nhân khẩu. Đó là mơ ước sinh tồn của một thời loạn lạc, thiên tai đã từng tiêu vong cả nhà nước và dân tộc, xoá cả nền văn hoá tưởng hưng thịnh ngàn đời.

Nay khác xưa không hỡi tiếng chuông chùa, hỡi tượng đồng Trấn Vũ, nước Tây hồ trong đục ra sao? Đã đôi lần CH hỏi chùa, hỏi đền chỉ được đáp lại bằng tiếng chuông ngụ ý rằng “không, không”. Bợm nhậu 36 phố phường xưa ra hiệu mời CH về đền Cẩu Nhi, lên Nhật Tân hít khói rơm thơm da thịt cầy bẩy món. Đời sống phố phường nay khá giả phồn vinh, đua chen sung sướng bọn cô hồn cũng thơm ngạt khói nhang.

Ôi đau thương. Một bữa nọ CH neo rạt bên đền thờ danh nhân, một cặp người phong độ, đức độ đến viếng vào giờ vắng để hưởng trọn giây phút với thần linh, họ công đức đậm tay, tiếng chuông mõ to hơn để đáp lại thịnh tình. Cửa thiền lúc đó, một người dương có vẻ không muốn nhập hội cô hồn, lễ độ đến xin lộc.

Tất cả lặng im, cửa thiền chưa phát lộc, ánh mắt người đức độ, phẩm giá kia lướt nhanh gần bằng ánh sáng để lại ánh mắt tuyệt vọng cho người ăn mày mơ xôi gấc. Vài hôm sau, trạm chuông trời vùng đó rung lên, một cô hồn nhập hội cô hồn.

Cái tên XH, CH chẳng phải mẹ cha đặt, không phải tự xưng mà dân giã đặt vào nên thất lạc sổ đinh như bao nhiêu sổ địa bạ của những ngôi nhà tranh cách dậu cúc tần, nay ai nhớ làm chi.

Lang thang trên bầu trời còn cây xanh trú ngụ, còn cánh chim nâng đỡ kiếp hồn ma.
Hồn Chiêu, 2008 gọi Xuân Hương.

+>Thư Xuân Hương hóa vàng gửi Chiêu Hổ

Thứ Bảy, 19 tháng 10, 2013

Cổ nguyệt lầu ngày sầu muộn (Xuân Hương gửi các quan anh)


Xuân Long Thành,  những năm 2M thịnh trị
Thân mến gửi các quan anh!
Thư từ XH-CH níu kéo quan anh Tổng trấn. Năm sớm hợi hiền nhiều vận hội, chúc các anh quan lộ thượng bình an dẫu có hao tiền chùa, tốn sức dân, chịu luỵ dưới tán lọng màu ngà.
Tổng trấn là người hùng thực sự của Kinh thành, anh đã dụ ngoại kiều, huy động sức dân nâng Kinh thành lên tầm cao mới (lờ đi nhà thêm tầng), ít ra cũng khỏi úi xùi với dải đất cong cong nhiều thành trì, thương cảng xập xệ.
Bao bữa tiệc lớn bé, Tổng trấn chiêu hiền đãi hậu người Cao Ly, người Chà Và, khách bể xa, đã phát lộc cho Xuân Hương làm bao kẻ ghét ghen gây sự. Họ đâu biết rằng người ngoại quốc đến với những  thương vụ xây cất, kinh doanh với Long Thành đã cùng người của Tổng trấn rửa những mớ tiền tại Cổ Nguyệt lầu thông qua hoá lai biên nhận khách ăn 3 chủ chi tính 30, gửi giá, có sao đâu (XH không ăn “bánh dầy” nên giữ được khách). Những kẻ không nhận phân tiền lại quả, XH dặn quản quán ghi sổ hậu tạ.
Quan Bắc thành có nhiều kẻ sỹ, quan nha thanh liêm, lãng tử dưới quyền khiến XH cảm thấy Bắc Hà không hổ danh. Cũng qua Cổ Nguyệt lầu dùng tiệc tùng mà XH đã giới thiệu văn hoá Việt, văn hoá thứ thiệt của Văn Lang đến hôm nay. Sau bữa nhậu, đoàn xe ngựa, mỗi xe một xà ích, một tố nữ dẫn đường cùng du khách rong duổi 36 phố chợ Kinh thành, chùa chiền, đình miếu, đồng quê nhiều sản vật chiều lòng khách.
Thành thật cảm ơn Tổng trấn, kính báo cùng quan Chiêu và khách thập phương đọc thư quảng bá nầy.
Thưa các quan anh, những người hùng chiến trận, công đường, các anh đã lỡ nhịp rồi. Chúng ta đã gồng sức và đức xây dựng thời đại kim tiền, XH lý giải các anh hay những chuyện tại Cổ Nguyệt lầu, thực khách đưa đẩy chuyện triều chính, thương trường, em út thú vui phàm trần.
Sắp tới, vua chiêu hiền đãi sỹ vào Hội đồng lập hiến, chuyển nền quân chủ chuyên chế sang quân chủ lập hiến. Hội đồng sẽ là nơi dung nạp thập loại chúng sinh, nơi đẩy “ngựa non háu đói” thăng quan, nơi thu dung những vị quan sắp “mãn kinh” như Tổng trấn,“hồi kinh” như quan Chiêu hạ sơn. Vào chức vụ dân vỗ tay, vua chuẩn tấu, các lão nghị được bổng lộc vững vàng: xe ngựa tía (cấp cỏ, bỏ phân) lọng vàng nhoong nhoong thôn ổ, chúng dân cúi rạp, thổ quan vái chào, bổng lộc cộng dồn cũng khơ khớ, quy tiên thì được điền trang bản quán khắc tên chữ, rát vàng giữ danh …đến chán thì bỏ hoang.
Thịt xôi, hiệp đấu này 5 được 5 thua. Các anh có công, có của nhưng vẫn là con lừa cả thôi làm sao dịch nổi đám sói trỗi dậy (sói rất thích món óc lừa).
Mấy bữa nay dân nhậu Cổ Nguyệt bàn về mấy trang công tử, phò mã đại thần (tiếc cho quan Chiêu không ngậm miệng làm phò mã, làm giàu rồi ly dị đến Lầu Cổ nguyệt đầy mỹ nhân). Những năm tháng binh đao Chiêu ăn hang ở hốc, giáo mác sa trường, quan Tổng trấn ôm đao, cầm kích gác hầu vua quan đêm trường giá lạnh thì các công tử con khai cuốc, khai đao (vua quan dẫn dân khi khai hoang lập ấp) đang du học trời xa nơi có đèn treo ngược, tóc mọc ở trong, để tre già măng mọc, thái bình kinh bang tế thế. Hoà bình họ hồi kinh, không vội vã tiến vào chức quan như các anh mà lập sân sau của khai quốc, công thần nhái mác “sân Trình, cửa Khổng” hứng những hợp đồng xuất nhập khẩu, đầu tư mà việc bán lại những chiếu chế “kinh thư, bình chuẩn” nầy cho bọn kẻ chợ (trong đó có Tổng Cóc) mang lại đồng tiền sạch sẽ không có mùi vị mồ hôi của công tử (nhưng thấm máu, nước mắt của chúng dân). Cứ thế, vàng bạc họ đúc gạch tráng men Bát Tràng xếp kho, rút ra mua điền giá rẻ nắm hàng tập sổ khoán bằng thổ, làm đường-trường-trại cho dân bằng tiền riêng;  sang nhượng cho thuê thanh lâu, thương điếm, nhà xưởng, nơi du hí, tài trợ cho cả nhà chùa, nhà trẻ, từ thiện trong vùng đất họ sở hữu, họ “nắm chợ, buôn tiền” cho vay nhiều lãi suất, họ tham vấn “chợ buôn  bán sức người” đi phu dịch ngoại bang, giúp dân xoá đói, làm giàu cho quan!
Sân sau là thế, sân trước mặt triều vẫn phải ca bài “chuẩn thư” xoá đói, giảm nghèo phát triển dân doanh, đức độ, truyền thống. Quyền lực cực nhọc lắm: quả nhân cô quả, quan trường điêu toa, nói đúng làm sai, ăn bậy bởi đồng lương ngạch trật có hạn, gốc gác vua quan cũng là dân nên có cơ hội là gian tham, nhũng nhiễu quan dưới, quan dưới hành dân, cứ thế đèn kéo quân chế độ vua quan- dân giã.
Tiếng khen vẫn nhiều hơn tiếng chê, xưa này chỉ có quyền và tiền mới là thực lực giải quyết những vấn đề quốc thái, dân an. Tổng trấn thành, quan Chiêu ít nhiều có hai thứ đó nhưng còn nhỏ bé quá (to đầu lắm óc nhiều chữ, tim khoẻ, giàu tâm hồn chưa thể ngồi ngôi tầng trên là điều quan anh quá hay trong sử sách). XH chỉ có mấy ngón ẩm thực, thơ thanh tục, cùng hầu non chạy bàn đặng giữ khách nặng hầu bao, câu khách ham món lạ (vẫn lo ngoại quốc, ngoại kiều cạnh tranh giành khách bằng chính ngón nghề truyền thống)
Bọn sỹ phu ẩn dật cùng các học sỹ Văn miếu no cơm rượu hơn dân nghèo nhờ vài chữ nghĩa dậy trẻ, luyện thi, thờ cúng, bói toán nhân địa thiên không thể tham chính, tham dự thương trường. Đói quá nói chữ, vua ban chút lộc thì miệng sáo tụng ca thánh thượng vạn tuế an khang! Bọn này đa phần là đồ trang điểm cho các thời đại, được đôi người đáng mặt kẻ sỹ như Cần chánh điện học sỹ ND miệng dạ vâng vua lấy lộc nuôi 18 con, ba vợ với hầu non mài mực gãi lưng, tay nảy Kiều theo tích Trung Hoa.
Tổng Cóc đồng niên các anh, lúc binh đao chàng cáo bệnh làm mắt toét (bôi  mủ da cóc pha loãng), lên cơn co giật động kinh (uống rượu pha nhựa cây độc) nhưng rồi cũng làm trương tuần ở hậu phương, leo lên hàng Tổng, đời phải có quan lớn, nhỡ, nhỏ chăm sóc dân gian! Tổng Cóc biết lượng trên, gạt dưới, ăn chặn đủ đầu cũng nhà lầu, thê thiếp nghênh nganh một miền quê. Năm ngoái chàng Tổng Cóc về Kinh thi cử, hy vọng đoạt khoa bảng tiến vào cung sánh cùng con “khai cuốc, công thần”, so đua với bốn phương trời góc bể tối tăm mù mịt.
Cóc có đến Cổ Nguyệt lầu mượn tứ thư, ngũ kinh cùng các bài thi từ thời vua Lý, nhờ XH môi giới gặp quan chánh khảo để học ôn cho chắc ăn. Môn thơ, phú, kinh nghĩa Cóc luyện không đặng, môn văn sách thì trả lời lung tung, nhưng soạn chiếu, chế của vua và biểu của dân thì Cóc tỏ ra thông kinh bởi chàng đã từng thực tế chuyền chế, chiếu và dâng biểu. Cóc chịu chi đã đỗ vớt, vua cho làm quan hậu cần phục vụ ẩm thực và thời trang trong triều, Cóc cười mà rằng: “văn hoá ẩm thực, thời trang là quốc hồn, quốc tuý”. Trả ơn chỉ dẫn, Cóc đã nhiều lần đưa khách phàm ăn đến các chi nhánh Cổ Nguyệt lầu thưởng ngoạm “cầy tơ bẩy món, gái áo tứ vạt”. Có học, có chức, có tiền quan Cóc ngày càng văn hoá hơn, bằng chứng là chàng hướng về khoái khẩu, thưởng thức, giảm phàm, cấm tục tĩu với thôn nữ nhà hàng mặc dù các em ăn vận hở hang.
Quan Tổng trấn, chàng Chiêu không thuộc hạng đó thì ra hạng gì?
XH thiển nghĩ : Hiệp đấu vào Hội đồng 2 người 1 ngợm khua môi múa mép, gật gù xuân thu nhị kỳ, các anh không đặng bởi giữ chữ tâm, bởi phải giữ tiền, vì các anh ít của. Đám công tử kia nó ứng dăm cục vàng làm từ thiện-của thiên trả địa vài cơn mưa móc xuống chùa chiền, trường học, nhà tế bần, cầu cống, đường xá thôn ổ là dân vỗ tay khen. Nó mua các quan Thượng thư cầm trịch vụ này nói ba lời “gang thép” thì dân theo rầm rầm. Tuy nhiên, để chắc bền công danh bổng lộc, có chỗ dựa cho tương lai con cháu phì gia, các anh nên tìm những công tử mặt mày “chó sủa” mà phù thịnh, đặng giữ lấy lề kẻ sỹ.
Chăn dân như chăn bò, bò ra sữa, bò con chóng lớn, bò mẹ no béo, mọi nhà có phần như “được mùa Nông cống” đừng để đói nghèo đến “Phủ Khoái xin cơm”. Đó là đạo vua tôi vì nước, vì thân.
Đôi lúc cao hứng, thực khách, thi nhân, du thủ, du thực bọt mép ra Cổ Nguyệt lầu tâm sự vua tôi, nhân tình thế thái, XH động viên họ: “Con vua có của làm quan, con dân có sức kết đoàn làm ăn”, có người nghe ra gật đầu, có kẻ khó chịu đòi “con vua thất thế” nhưng lo họ “đi quét chùa” tranh phần xôi oản của dân!!!
Quan anh thân mến, lựa lấy thế thời. Cũng may mà quan trường nước ta đa phần chỉ gian tham khiến lòng dân nhưng nhức, một số đứa bạo ngược mưu loạn đã bị lưu đày.
Gian ngoan là đường dài quan lộ khi đất nước có vua quan. Chàng Chiêu và Tổng trấn kiểm lại đồng hào cắc bạc của  mình, đưa lên mũi, nếu không có mùi ác thì chạm lưỡi vào sẽ tê te. Nói lời nhân-nghĩa- lễ- trí-tín thì Tổng Cóc, quan Phủ Vĩnh Tường, danh sỹ Phạm Thái chày cối chẳng kém ai huống hồ bậc vua, các quan anh và đám văn sỹ nửa đười ươi la cà quán xá tụ bạ văn chương.
Những đồng bạc nhận của quan nhậu, XH để giương hòm đêm đêm vọng ra tiếng ma trẻ khát sữa, suy dinh dưỡng khản đặc, tiếng ma già oan khuất não nề, tiếng cãi chửi chia chác vung vãi nên hàng tháng tháng XH phải cúng cô hồn cháo quẩy bồ đài nơi gốc đa miếu vắng; cúng cơm các quan tuần thú hạch sách thuế má, địa bạ, an toàn cháy nổ, vệ sinh thực phẩm, bãi đỗ ngựa xe, kiểm tra kỹ nữ hầu non giấy má tuỳ thân, khế ước bán nhan sắc, sức lao động.
Các anh đã cùng vua quan khai cuốc, khai đao, xả thân thời trai trẻ cứu nước cứu dân, đã gắng làm điều hay, lẽ phải thì hãy đi hết điều đó cả cuộc đời. Không ngồi chiếu sân triều trình tấu đến thẳng tai vua vớt lộc muôn nhà, thì vẫn còn đường dâng biểu, còn những chiếu cói, chiếu đay, rơm rạ trên các sân đình thôn ổ cần các anh đến giúp dân làm ăn.
Sức các quan anh còn trẻ (nghe các tố nữ Cổ Nguyệt lầu khen), để vinh thân thịnh gia hơn nữa không còn con đường nào khác là dùng sức trí lực làm các dự án huy động sức dân, ngân khố quốc gia, vay mượn chia sẻ với ngoại quốc, ngoại kiều để dân được hưởng công ăn việc làm, no cơm ấm cật chằng phải là điều muôn nhà mong muốn, quan lại muốn dự phần “xin cho” mỗi lần ban chiếu, chế dự án?
Lúc này bon chen sân triều, hay mưu tính phì gia hoặc tìm thú vui an nhàn, tao nhã, sớm rượu trà trưa, thơ phú, chơi gà, đua ngựa, hú hý hầu non, gái đĩ Kinh thành sẽ làm các anh “thân tàn ma dại” chứ đừng nói là “thân bại danh liệt”.
Dân doanh muôn thuở, quân quan nhất thời, rồi đây chế độ quân chủ lập hiến chỉ là đười ươi giữ ống cho oai (cũng nên nuôi cái “Phủ Quốc oai” đó như nuôi mõ hề mua cái thực vui). Dân vạn đại, dân quyết, dân bàn, dân bày, dân ăn, dân mời chào thập loại chúng sinh gian manh cùng quan tham!
Quan Chiêu đa tình, Tổng trấn đa tài hoà hợp với nhau, chịu thờ Kinh thành hào hoa thơ mộng, phụng sự đất nước, có phúc có phần, có em yêu.
Hàng mới về, hãy đến Cổ nguyệt lầu thức thưởng hàng đêm!
Kính vái quan anh.
Xuân Hương mãn nguyệt!

=>Chúng ta mãi mãi kiếp cô hồn