Trường ca Hồ Chí Minh. Phần III. Đế Vương (3201 -3420 hết )
3201Thắng đừng có vội hò la,
Thua đừng nhụt chí, đẩy tà huy bay.
Việc cần trước, phải làm ngay,
Cơm no áo ấm làm ngày, học khuya.
Mặt trời tỏa sợi nắng tua,
Thời vận đến phải guồng đua nhịp
nhàng.
Đế đưa bút xổ dọc ngang,
Mực Tầu chữ Phạn giấy vàng bùa
treo!
Tiết trời năm ấy
mưa nhiều,
3210. Đầu Xuân khô hạn tiêu điều xác xơ.
Lệ thường chúc Tết
làm thơ,
Cuối năm thăm bạn
thuở Sơ hầu
toà.
Bay sang đất nước
Trung Hoa,
Trước là dưỡng sức
sau là tri ân.
Bạn bè thuở Bát Lộ
quân,
Toàn hàng nguyên
soái đang quần thảo nhau.
Cách mạng Văn hoá nước
Tầu,
Hồng vệ binh đã
xén râu công thần.
Xô Trung hục hặc
kéo quân,
3220. Về miền biên ải tranh phần thiệt hơn.
Đế buồn trông cảnh
chiều hôm,
Con thuyền vô sản
cánh buồm tả tơi.
Đông Âu cách mạng
nửa vời,
Đệ nhị quốc tế
thích chơi nghị trường.
Pa ri họp nát như
tương,
Các đệ xung khắc, chiến
trường cam go.
Nước giàu sợ béo,
sợ no,
Dân mình đói kém
xương trờ ngoài da.
Chủ chiến phe của
đệ Ba,
3230. Trường kỳ kháng giặc, Giáp ta quen bài.
Liên quân Mỹ trải
dọc dài,
Phía nam Bến Hải
gần hai triệu thằng.
Nổi dậy tiến về đồng
bằng,
Giao thừa phát hoả
pằng pằng pháo bông.
Lững lờ máu nhuộm
dòng sông,
Đưa về biển cả
trai mồng thành Loa.
Ba điệu Giáp tướng
đi xa,
Điện cho Bác ở
Trung Hoa chậm về.
Phi trường chiều
đông tái tê,
3240. Đường băng tắt điện thử nghề phi cơ.
Máy bay vòng lượn
bất ngờ,
Tiếp đất dừng
bánh sương mờ ngừng bay.
Điếu thuốc còn ở
trên tay,
Thản nhiên Bác
nói :"Họa này còn xa",
Bùa ngải nước Phạn
kéo ra,
Ngàn cân sợi tóc
vẫn là thảnh thơi.
Chủ chiến giao chú
Ba chơi,
Khiến dân nước Mỹ
rụng rời thất kinh.
Loài người phát
triển nhờ tình,
3250. Một con ngựa ốm cỏ khinh cả chuồng.
Bác buồn kiếp nạn
dân thường,
Bom rơi đạn lạc,
cởi truồng tản cư.
Huế mang nặng mối
thâm thù,
Nhiều người hoàng
tộc cậy vua làm càn.
Lông chìm đá nổi
trái ngang,
Tai bèo, nón cối
ngập tràn sông Hương.
Đông Ba máu bết nẻo
đường,
Đạn bom hai phía
chẳng thương dân lành.
Truy đuổi Việt cộng
lên xanh,
3260. Súng không còn đạn,…thôi đành đò đưa.
Hàm Đan cốt
trắng thành xưa,
Đống xương Vô Định bây
giờ vùi sâu.
Ngàn năm hay mãi
về sau
Cối chày đạo lý
cãi nhau tơi bời .
Năm sau Đế mỏi rã rời,
Cơm đưa lưng bát, khách mời Bác
lui.
Tình xưa khói lửa bùi nhùi,
Rơm thơm rút đống, sắn lùi lên
hương.
Quá nửa thế kỷ dặm trường,
3270. Đấu tranh, chinh chiến đuổi phường xâm lăng.
Lên ngôi trong tiếng súng đoàng,
Non sông cách trở dân làng đánh
nhau.
Bác nhìn lên ngọn hàng cau,
Vườn dừa tướp lá nỗi đau quặn
lòng.
Niềm tin thống nhất non sông,
Đá thề nứt toác, gươm còn trơ trơ.
Hiện lên dòng giữa bài thơ,
Ngoại xâm phải cút, ngụy thờ chính
nhân.
Nửa giáp giải phóng Nam phần,
3280. Non sông một mối muôn dân một nhà.
Vinh quang cay đắng xót xa,
Một trời vui lớn dịu xoa nỗi buồn,...
Út Vân ra bến Nhà Rồng,
Nén nhang bè chuối theo dòng nước trôi.
Cửa Phật nương ẩn một đời,
Cửa Chùa toả sáng một trời thương yêu.
Sáu mươi năm lẻ bóng chiều,
Trung trinh nguyện ước đi theo mối tình.
Đèn Giời rọi sáng lung linh
3290. Bao lần trợ giúp Đế Minh tranh quyền?
Tóc nàng Út bạc mầu thiền,
Hao gầy thân thể rộng miền chân tu.
Sóng tình ngó ý mau thưa,
Tơ lòng một sợi mút mùa Đạt Ma.
Thấu tình cõi Phật mờ xa,
Nhãn tiền không lợi người ta vẫn làm.
Chí tình, chí nguyện trời Nam,
Trời Bắc bông huệ hương lan khắp phòng.
Tình yêu ấm áp cõi lòng,
3300. Miền Nam trong trái tim hồng mai
sau.
Đại tang vào chính mùa ngâu,
Ngưu Lang Chức Nữ qua cầu ô bay.
Tiếng súng thưa nhạt ít ngày,
Tiếng than dậy đất, khóc mây mịt mờ.
Đế đi vào đúng ngày giờ,
Năm xưa lập quốc trên gờ bục cao.
Hai ngày trong một không sao,
Niềm vui Quốc lễ mâm cao giỗ đầy.
Nỗi buồn theo áng mây bay,
3310. Tơ lòng xao xuyến dặm dầy bôn ba.
Bác muốn nghe điệu dân ca,
Núi Hồng vĩ dặm, tỳ bà Phương Đông.
Bác khen ca sĩ, nhạc công,
Cảm ơn tặng một bông hồng xinh
tươi.
Ca nhạc Tây Tầu đến chơi,
Bác muốn sống lại
một thời đấu tranh.
Bóng hồng một thuở đầu xanh,
Chập chờn gương mặt bên thành giường
con.
Một đời sắt máu màu son,
3320. Một đời vì nước vì non yên bình.
Một đời vun đắp chữ tình,
Yêu thương đoàn kết dân mình ấm
no…
Phút giây để lời dặn dò,
Anh Ba thứ nhất phải lo chiến trường.
Đón chờ trận chiến bi thương,
Dòng sông Thạch Hãn máu xương
tơi bời,
Thủ đô khói đặc bầu trời,
Không chiến trận chót sau ngồi Pa ri…
Nhiều đệ vội phải ra đi,
3330. Nắm tay Đế dặn khắc ghi vào lòng.
Sáu Dân, Mười Cúc khóc ròng,
Sau lên hàng Trụ vừa lòng chúng
dân.
Sáu Thọ được mời đến gần,
Bác dặn giữ Đảng trắng ngần sạch
thơm.
Tướng Giáp được chuyện nhiều hơn:
Phải thờ chữ Nhẫn, biết ơn đồng
bào,
Cho con ra đứng chiến hào,
Triệu người ngã xuống công lao
không vừa.
Hương hồn liệt sỹ phải thờ,
3340. Muôn năm tưởng nhớ vô bờ bến xưa.
Thanh niên nhiệt huyết dư thừa,
Phải học hành tốt hẹn mùa bội thu.
Dân tình khổ cực lơ ngơ,
Trợ cấp, giáo hóa không giờ nghỉ
ngơi.
Nguy cơ phản động muôn đời,
Lấy nhân lễ nghĩa giúp người đổi
thay.
Thận trọng mỗi lúc xuống tay,
Phòng ngừa phản loạn, trấn ngay giặc
thù.
Tuần lễ mưa gió mịt mù,
3350. Trời tuôn nước mắt tiễn đưa Thiên tài.
Trở về xứ sở Bồng Lai,
Thánh hiền hội ngộ không ngai ngọc
ngà.
Người về sống dưới mái Nhà,
Sớm đèn tối lửa với bà con dân.
Tìm người xưa cũ tri ân,
Gặp bên đối địch nợ nần cho xong.
Làm người đều muốn thật lòng,
Nhưng là tranh đấu phải phòng ngừa
nhau.
Ngày tang đen đậm, trắng phau,
3360. Mưa rơi tầm tã, mưa sầu, mưa ngâu.
Ngưu Lang, Chức Nữ qua cầu,
Ô thước giang cánh nghiêng đầu kết
duyên.
Út Vân sống ở trong Miền,
Không tin chàng đã về thiên cổ rồi
?
Niềm tin nhiều thứ chơi vơi,
Tình yêu chung thuỷ vàng mười còn
non.
Thế Truyền than khóc
héo mòn,
Huynh đi, đệ sống chỉ còn chua
cay?
Hai tuần sau Truyền xuôi tay,
3370. Theo huynh để nhớ tháng ngày Ba lê !
Cần lao khóc lóc thảm thê,
Nghe ông Ba Duẩn “xin thề” xung
phong.
Điện buồn theo mưa ròng ròng,
Lễ nghi trang trọng tấm lòng đệ
huynh.
Miền Nam bom đạn uỳnh uỳnh,
Ních xơn nhận thấy viễn chinh sắp
tàn.
Việc Nam hoá cuộc chiến tranh,
Mỹ rút nhỏ giọt người mình đánh
nhau.
Đội quân các nước chư hầu,
3380. Tham tiền cố chiến lấy mầu Mỹ chi.
Trường Sơn rầm rập quân đi,
Lời thề tang lễ súng tì chắc vai.
Sáu năm chiến tiếp chặng dài,
Tháng Tư năm Mão xong bài
sử thi!
Chặng đường dài dặm bước đi,
Bình minh hé rạng thiên thu gọi về!
Cuộc chiến tự vệ lê thê,
Láng giềng hung hãn dao kề cổ ta.
Vang lên bài "Tiến quân
ca",
3390. Viễn chinh"Thốt nốt"
tiến ra biên thuỳ
Non sông vào thế an nguy,
Cha già với lính ăn thề từ lâu.
Chiến trường rừng thẳm vực sâu,
Vãn hồi hoà hiếu hai đầu núi sông.
Đế vương luôn lấy chữ đồng,
Nhẫn nhịn vượt ngưỡng là vung búa
rìu,...
Người đi để lại thương yêu,
Mặt trời tắt nắng lửa vào lòng
dân,
Một đời thờ phụng chữ “Nhân”,
3400. Ngải bùa nước Phạn hoá tàn tro bay.
Gia tài để lại sau này:
Tự do Độc lập vui vầy anh em.
Ngôi nhà chỉ một mái sàn,
Bồ câu tung cánh đầy đàn sinh sôi.
Bờ ao cá quẫy hóng Người,
Vườn cây chim hót dưới trời trong
xanh.
Chùm chuông gió thổi thanh thanh,
Nguyện hồn các loại chúng sanh nước
nhà.
Không châu báu, chẳng ngọc ngà,
3410. Lòng dân thân thiện vào ra viếng Người.
Ra đi nhẹ nhõm thảnh thơi,
Tự tin như thuở biển trời viễn
dương.
Để lại hình ảnh yêu vương,
Đời sau chiêm nghiệm vào đường
nhân sinh.
Thập toàn khuyết một mối tình,
Không nên chồng vợ, một mình gối
chăn.
Tư tưởng Chí Minh rõ rành:
Cơm no áo ấm chúng sanh hài hoà…
Lời quê sáng tối đậm nhoà,
3420. Để cho bạn đọc gần xa tỏ tình.
___________________
Làng Đại Yên, Hà Nội,… 2019-2021
Đại
Cách mạng Văn hóa Giai cấp Vô sản là một phong trào chính trị xã
hội tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa diễn ra trong 10 năm từ tháng 5 -
1966 đến tháng 10 -1976, gây tác động rộng lớn và sâu sắc lên mọi mặt của cuộc
sống ở Hoa lục nên cũng được gọi là "10 năm hỗn loạn". Cuộc cách
mạng này được Mao Trạch Đông khởi xướng và lãnh đạo từ ngày 16 - 5
-1966, với mục tiêu chính thức là đấu
tranh với giai cấp tư sản phong kiến. Tuy nhiên, mục đích chính của cách
mạng này được một số người cho là một cách để Mao Trạch Đông trấn
áp lấy lại quyền kiểm soát Đảng Cộng sản Trung Quốc sau
cuộc Đại nhảy vọt bị thất bại dẫn đến sự tổn thất quyền lực đáng kể
của Mao Trạch Đông. Giới trẻ Trung Quốc hưởng
ứng bằng việc thành lập các nhóm Hồng vệ binh trên khắp đất nước, đấu
tố cán bộ các cấp, phá hủy rất nhiều các di tích và hiện vật lịch sử có giá
trị,…
Bài thơ Xuân Kỷ Dậu (1969) Bác viết: Năm qua thắng lợi vẻ vang/
Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to/Vì độc lập, vì tự do/Đánh cho Mỹ cút,
đánh cho ngụy nhào/Tiến lên! Chiến sĩ đồng bào/Bắc Nam sum họp xuân nào
vui hơn!
Trận Thành cổ Quảng Trị là một
trận chiến giữa một bên Quân đội Nhân dân Việt Nam với một bên
là Quân đội Hoa Kỳ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại khu vực thành
cổ Quảng Trị vào năm 1972. Đây là một trong những trận chiến ác liệt
bậc nhất trong Chiến dịch Xuân Hè 1972, một phần của Chiến tranh Việt
Nam. Trận chiến kéo dài trong suốt 81
ngày đêm, từ ngày 28 - 6 đến ngày 16 - 9 -1972, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa đã thành công trong việc
tái chiếm lại Thành cổ nhưng vẫn không thể giành lại nửa Bắc của tỉnh Quảng Trị.
Ngưu Lang là vị
thần chăn trâu của Ngọc Hoàng, vì say mê một tiên nữ phụ trách việc dệt
vải tên là Chức Nữ nên
bỏ bê việc chăn trâu. Chức Nữ cũng vì mê tiếng sáo của Ngưu Lang nên
trễ nải việc dệt vải. Ngọc Hoàng giận dữ, bắt cả hai phải ở cách xa nhau,
người đầu sông Ngân, kẻ cuối sông. Sau đó, Ngọc Hoàng thương tình nên gia
ơn cho hai người mỗi năm được gặp nhau vào ngày 7 tháng Bảy âm lịch. Khi
tiễn biệt nhau, Ngưu Lang và Chức Nữ khóc sướt mướt. Nước mắt của họ rơi xuống
trần hóa thành cơn mưa và được người dưới trần gian đặt tên là mưa ngâu,
gọi họ là “Ông Ngâu Bà
Ngâu’.
Chiến tranh biên giới Tây Nam là cuộc xung đột quân
sự giữa Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Campuchia Dân chủ.
Cuộc chiến có nguyên nhân từ các hoạt động quân sự của quân Khmer đỏ tấn
công vào lãnh thổ Việt Nam, giết chóc người dân và đốt phá làng mạc Việt Nam
trong những năm 1975-1978.Việc đánh đổ Khmer đỏ đã được thực hiện
xong từ năm 1979, tuy nhiên tàn quân Khmer Đỏ (Pol pốt) vẫn còn tồn tại và
đe dọa chính phủ mới tại Campuchia, và Việt Nam đóng quân ở lại Campuchia trong
suốt 10 năm tiếp theo, đến 1989.
Chiến tranh biên giới 1979, hay thường được gọi là Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979,
là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nổ ra vào ngày 17
tháng 2 năm 1979 khi Trung Quốc đưa quân tấn
công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới giữa 2 nước. Chiến tranh biên
giới Việt – Trung bắt nguồn từ quan hệ căng thẳng kéo dài giữa hai quốc gia,
diễn ra trong khoảng một tháng với thiệt hại về người và tài sản cho cả hai
phía. Xung
đột vũ trang tại biên giới giữa hai nước vẫn
còn tiếp diễn thêm hơn 10 năm nữa. Tới năm 1991, sau khi Liên Xô
tan rã, Quan hệ ngoại giao Việt – Trung mới chính thức được bình thường hóa.