Hoà bình, tôi
buồn sầu bởi anh không về, tin tức mờ ảo. Một hôm, gia nhân bẩm báo có một
người lính cũ sống chiến đấu cùng anh muốn gặp. Tôi từ chối, nhưng người đó vẫn
đợi bên quán nước gốc phượng già mà anh tôi hay giả làm ma, nhắn gia nhân xin
gặp bằng được, nếu tôi không tiếp họ không về. Tôi mời vào phủ, họ không vào.
Tôi đành ra gốc phượng già. Sau đây là câu chuyện về trận Thuỷ chiến trên sông
Giông Tố mà anh tôi chỉ huy, gã Gộc tham chiến, kể lại:
“Sau lần Công
chúa tiễn đội tiên phong, anh và chúng em áp sát ven sông Giông Tố chặn giặc.
Nhìn thuyền giặc ngang dọc trên sông, đổ quân lên bờ cướp bóc, bắt người, đốt
nhà, khói, tàn tro rắc trên sông, đau đớn lắm. Nhiều chiến sỹ đòi anh cho ra
quyết tử với chúng. So sánh lực lượng: giặc đông, đang cuồng, nhiều thuyền to, ta ít quân, ít thuyền, anh chỉ cho thuyền ra
tập kích, đánh lẻ các thuyền địch vượt sông. Đêm đêm, anh cho người bơi sang
quan sát kiểu thuyền địch và kiểu bố trí đội hình, tìm thuyền chỉ huy.
Giặc ma quái,
chúng không đánh như tằm ăn mà đánh nhỏ giọt kiểu gà, ngan, vịt khát nước rỉa
mớ rau tươi, hay con cá bị chặn dưới cối đá còn thò ra, rất khó chịu. Quân ta
ngộ chiến, giáp trận thiệt hại thường xuyên. Thuyền giặc từ bể kéo vào đậu dài
bên sông, nhức mắt. Chúng định một trận tràn sông.
Một, hai rồi
nhiều buổi anh lệnh cho chiến sỹ vào rừng vào vườn đào cả cây, chặt thân chuối
kết bè thả xuôi sông qua chỗ thuyền giặc. Trên thuyền anh bảo đặt nải chuối, lá
chuối, đặt bùa giấy xanh, đỏ, vàng thắp hương như gọi hồn người chết đuối mà
dân Bến Mơ chúng em vẫn cúng ngày Rằm, mùng Một, giỗ, Tết.
Những người lính
trung thành, tuân lệnh anh. Một hôm, và nhiều hôm anh cho chiến sỹ thay nhau
tập rượt. Cứ bốn người bám một bè, trang bị vũ khí xuôi sông áp sát thuyền
giặc, bè trôi qua đó rồi bỏ bè lên bờ.
Lúc đầu địch bơi
thuyền ra đâm chém bè chuối nhưng chẳng thấy gì, sau chúng bỏ qua. Nhiều thằng
sợ, chắp tay lạy tín ngưỡng dân ta.
Dân Bến Mơ chúng
em sống bằng chài cá, thông thạo khí trời, nhìn màu dáng mây biết mưa bão. Em
không rành nhưng anh rất thạo. Trên đường chinh chiến, anh hay xem sách thiên
văn, địa lý, lịch sử.
Hôm đó, ráng mỡ
gà, sông yên lặng đến chiều vẫn lặng yên. Anh cho anh em cơm no, húp mật, uống
nước mắm, còn lại đóng vò rồi đi trận. Cứ ba, năm, bẩy người một bè chuối. Mỗi
người hai dao găm, bó đinh, búa, cưa, đục gỗ mài sắc, ống đựng dầu bằng ống
bương mỏng nút bằng đất sét trộn bột gạo nếp, mồi lửa, gươm giáo, cung nỏ, vũ
khí các loại như súng bắn đá để bắn các ống dầu, quả lửa,... gắn vào bè.
Những con
"rái cá" xuôi bè. Anh ở trần, cầm lái một bè, số bè chuối nhiều hơn
số thuyền địch, có một số bè không có người. Gió, nước lạnh nhưng nước mắm làm
ấm, lòng căm thù giặc bốc lửa trên thân thể chiến sỹ ta. Sóng nhẹ, bè trôi
nhanh, anh em ngụp ngâm người áp mặt vào bè chuối xuôi về phía thuyền giặc.
Em nghe rõ bọn
địch khề khà rượu chè nhậu nhẹt, tiếng con gái rên khóc, tiếng hát man dại của
những thằng say rượu, ra mũi thuyền vãi linh hồn xuống sông.
Khi bó hương bốc
lửa soi rõ cờ lệnh cắm trên bè (cờ mà công chúa trao anh, thiêng lắm) làm hiệu
lệnh thì các con "rái cá" chiến đấu, giết con mồi.
Vì đã được huấn
luyện kỹ, các chiến sỹ không mấy khó khăn lặn xuống đục, phá thuyền giặc. Tiếng
sóng làm tan tiếng đục. Nhanh lắm, nước ào vào thuyền, có chiến sỹ trôi theo.
Gió thổi, những
ống dầu ào ào bắn, ném lên các thuyền, tên, đạn lửa (vải quấn đá tẩm dầu) từ
các súng bắn đá từ các cung thủ đứng trên bè, vạch nét sáng sao băng trên sông tới tấp vào thuyền giặc. Lửa bùng lên thui sống
quân ăn cướp.
Lòng căm thù dồn
nén ào theo cơn bão cuối mùa thu, dòng sông sáng rực soi rõ hình ảnh chiến sỹ
cởi trần đứng trên bè bắn tên, liệng ống lửa, có những người lính ở trần bị
trúng tên giặc vẫn cố bắn tên, quăng đạn lửa vào địch, anh dũng ngã xuống dòng
sông quê hương.
Đôi bờ, quân dân
tràn xuống mép nước hò hét, trống, phèng la inh ỏi xua đuổi những tên muốn lên
bờ chạy trốn. Giặc nhốn nháo, nhiều chiếc thuyền chìm nhanh, những thằng liều
nhảy xuống sông nếu không chết đuối thì chết vì giáo gươm chờ sẵn.
Quân và dân ta
cùng sông nước, gió bão sóng cồn lên làm trôi dạt thuyền địch, phá tan, nhấn
chìm quân xâm lược xuống bùn đen. Những chiếc bè chuối cũng tan, trôi rất
nhanh.
Em rạt vào bờ,
gần sáng tỉnh lại cùng dân thắp đuốc tìm các con "rái cá" lên cạn,
còn ít bè vào bờ, ra bể hết rồi ư?
Em đi xuôi triền
sông mấy ngày không tìm thấy anh đâu, chỉ thấy ít xác con "rái cá".
Em về ngay xem lại trận thuỷ chiến: Không còn dấu vết, dòng sông mùa thu nước
êm êm trôi bình lặng quên lãng như không có gì xảy ra mấy hôm trước. Dân câu rà
lặn xuống nói rằng đến quá nửa thuyền giặc cơ man là lương thảo, vũ khí. Chính
trận này cùng với chiến lược vườn không nhà trống của ta đã làm đại quân giặc
vào Kinh thành đói, bệnh nhanh thua. Sau chiến tranh, đội tiên phong của anh
không còn mấy chiến sỹ, họ đã bị các "mạt tướng, thường quan" cho
rằng không tiêu diệt nhiều sinh lực địch?
Đất trời không
chịu nổi binh đao tàn khốc, nên trừng phạt ư? Chiến thắng nào cũng phải trả giá
bằng thiệt hại, hy sinh lớn lao!”
Gã Gộc gào khóc như
trẻ em bị lạc, gọi tên anh.Tôi nắm chặt bàn tay thô ráp của anh, bàn tay mà hôm
ở quán Gỏi đã túm cổ anh của tôi... Lúc sau tôi nghẹn nói:
- Tôi sẽ đưa anh
gặp tể tướng - bố tôi, gặp vua để ghi công các anh và gia đình. Đất nước sau
chiến tranh còn nghèo nhưng vua sẽ nói với toàn dân đền ơn đáp nghĩa các anh.
- Không cần đâu,
thưa công chúa! Hoà bình, yên ổn làm ăn là tốt rồi. Em trở về Bến Mơ chài cá,
vợ con trồng dâu, cấy lúa. Chúng em lập miếu thờ nhỏ, hương khói. Cứ đến mùa
thu thả bè chuối trôi sông như ngày chiến trận, cúng viếng là hồn các anh và
dân chúng toại nguyện,...
"Tôi sống
hết mình. Còn nhiều việc phải làm nhưng chiến tranh chúng ta phải chiến thắng
xâm lược. Là người lính, anh em mình làm tròn nghĩa vụ đàn ông - con trai,
nhưng với riêng tôi muốn cùng anh em lập công, chiến thắng vinh quang hiến dâng
Tổ quốc và công chúa đã tin yêu giao cờ lệnh".
- Anh không nói
thêm gì về chuyện tình với công chúa, anh hay nhắc nhớ về bố mẹ, về kỷ niệm ma
quỷ Bến Mơ, về tuổi thơ lặn sông bắt cá, ra biển đảo... Em gặng hỏi anh sau
ngày tàn chinh chiến, anh về lấy khoa bảng, cưới công chúa thì anh cười mà
không từ chối hay khẳng định như bữa quán Gỏi năm xưa!
- Tôi nghe tin
anh vẫn còn sống sau trận thuỷ chiến đêm đó. Bè đưa anh và đồng đội trôi ra
biển Đông và không còn dấu vết, có người nói con “ma nhỏ" nào dẫn anh đi
đâu đó ngoài đảo xa, phải không?
- Vâng! anh vẫn
sống mãi với công chúa với anh em chúng tôi trọn vẹn một tấm lòng, một con
người, một chàng trai thuỷ chung với tình yêu chưa cập bến.
“Tôi hiểu anh Thành phố Bảo Phải Nghe muốn nói gì?
Có lẽ chiến tranh điêu tàn anh không muốn nhắc. Nhưng với tôi những ngày Lễ
Chiến thắng thì bó hương đồng đội lại đỏ rực trời xanh. Tôi, ai đó còn đây… có
lỗi. Tại sao mình sống? Là người lính hổ thẹn nhất là không dám chết và không
được chết nơi chiến trường!
Đất nước chưa
muốn tái hiện y chang chiến trận. Đó là đau thương của thời kỳ kiêu hùng. Chúng
ta trân trọng, trách nhiệm với những gì sau chiến tranh. Nhưng vinh quang và
kiêu hãnh muôn đời cho cháu con. Một mai hoa đào tàn phai trước gió đông, lộc
xanh nẩy mầm, con cháu chúng ta sẽ tái hiện với tình yêu, trí tưởng tượng, lòng
ngưỡng mộ thấm dần theo thời gian. Nó thế nào cũng được! lãng mạn hơn nữa, bi
tráng hơn nữa…
Còn bây gìơ vẫn
lặng thầm dâng hiến những mất mát, hy sinh, công trạng vào lòng thế hệ cầm súng
giải phóng và bảo về tổ quốc thân yêu những năm nửa sau Thế kỷ 20 (HDN
)”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét