Sau cuộc tiễn
đoàn quân ra trận, tôi theo bố di chuyển nhiều lần sở chỉ huy mặt trận tiền
phương, và cứ thế cho đến ngày kết thúc chiến tranh. Nhiều lần sở chỉ huy áp
mặt trận, đặt ngay trên sông, tôi không trực tiếp chiến đấu nhưng chứng kiến
lửa khói bụi tàn tro, mùi chiến trận tanh nồng khi im ắng. Tôi chỉ làm việc
chăm sóc bố tôi, chăm lo bữa ăn cho các vị tướng tá về họp chớp nhoáng rồi ra
trận. Nhiều lần bố tôi cho tôi chép, rồi thảo các thẻ quân lệnh. Không có thông
tin về cánh quân của anh tôi- viên thuỷ sư đô đốc. Tôi có hỏi, bố tôi không
nói, sau đó ông thúc người đi nắm tình hình, người đó không về nhưng nhắn tin
qua người khác rằng: đội quân thuỷ đã biến đâu hết sau trận chiến cùng với đoàn
chiến thuyền giặc chìm vướng một lòng sông.
Bố tôi ra lệnh
truy tìm dấu vết trận thuỷ chiến đó. Không thấy gì, chỉ xác thuyền giặc chứa
đầy lương thảo cho cá ăn, và vũ khí quân ta thu giữ, gửi mẫu về cho Bộ chỉ huy.
Tôi được xem bộ
mẫu vũ khí đó và nghe lời bình của tướng tá, các tay thợ rèn binh khí,... thấy
kinh khủng: Ngoài nhóm vũ khí chiến tranh (tinh xảo) còn vũ khí (có khả năng)
giết người hàng loạt như những bình xịt, phun chất gì đó, những ống đồng dẫn
khí, nước,...và những dụng cụ tra tấn, gông cùm người... Chúng tàn sát dân tộc mình đến không còn ai nữa ư, chúng đồng hoá, cướp
đất rồi sáp nhập lãnh thổ ư ?..Anh tôi và đồng đội đã chặn nhấn chìm một tội ác
man rợ của thời đại đang dã man, nhưng tôi không thấy bản báo công trong thư
tập công trạng, còn ai trong trận đó đâu?
Nhiều ngày, vừa
mệt, buồn nhớ anh, tôi bỏ cơm, lên đài quan sát nhìn về dòng sông màu máu đỏ,
nơi dân chài đã về tung lưới, quân lính ngược xuôi đưa đón nhau, thu dọn chiến
trường. Bố tôi biết, ông nói:
- Con đừng buồn,
chiến tranh là thế, bố đã không thể ép con về hậu phương, con không muốn về.
Đất nước hoà bình, con về đi học, vui như xưa, rồi sẽ quên tất cả, quên hết đi.
Bố tôi không nói
thêm câu nào nữa. Ông mất rất nhiều tướng lĩnh, quân lính trong chiến tranh, ông
chịu trách nhiệm với vua, với dân, với hàng vạn gia đình, hàng triệu bà mẹ, người cha,
người vợ, người con... Với đất nước ông đã cùng toàn quân dân chiến thắng. Ông quá hiểu rằng "một tướng công thành
vạn xác khô". Ông không có lỗi trước hy sinh của quan dân, tướng lĩnh, ông
tự hào có đứa con gái ra trận, giúp bộ Tư lệnh tiền phương trong những ngày ác
liệt của chiến tranh. Không biết ông được vua, dân thăng thưởng gì sau chiến
tranh?
Đoàn quân dân
chiến thắng trở về Kinh thành hoang phế. Trước đó, đội tiền binh và nhiều gia
đình đã trở về nhưng thưa thớt lắm. Tôi đứng trên xe ngựa mui trần cầm bó hoa
rừng, kỷ niệm của bến sông, cùng bố tôi và có dịp quan sát dấu Kinh thành điêu
tàn mà không cầm được nước mắt của niềm vui và nỗi đau.
Qua cửa ô thưa
vắng, qua quán "Gỏi" năm xưa không có ai. Những con chó hoang chạy ra
tìm chủ, không thấy, chúng tru lên từng hồi, rồi chạy rông điên dại,... chỉ
thấy chó hoang và vài con gà nhỏ mất mẹ còn sót lại bên những đống tro đen mà
giặc đã đốt trước khi tháo chạy. Chúng ác quá, những mái tranh nhà dân nhỏ bé
cũng đốt là sao? chúng mày cũng có quê hương, có mái tranh tường đất, mẹ già,
em nhỏ, vợ dại, con thơ,... ở phương xa?
Vào một ngã ba,
dân chúng về trước đã chuẩn bị cờ, hoa đón chào, những gương mặt thân quen,
tươi vui, tin tưởng vận những bộ đồ rách quá, vá túm nhiều quá, những đứa trẻ ở
trần, những chú trai quần lửng... và cô con gái nhà rượu tình địch của tôi thì
vẫn xinh diện quá chừng, cô nổi bật lên trong đoàn người ven đường. Sao cô ta
có bộ đồ Kinh thành đẹp thế kia? chắc để giành cho hôm nay, chắc tay bố chủ
quán rượu chọn đồ cho con gái, mà những ngày chiến tranh nó ở vùng nào? Một
chút vui thích lại chuyển sang ghen: Nó xinh đẹp kiêu hãnh trong dân chúng
khách hàng của bố. Nó sống không chịu kém ai!
Hanoi 1954
ảnh minh họa
Paris 1944
Cô ta tung những
bó hoa lên đoàn xe, cùng bố dâng những vò rượu mừng chiến thắng, chuyển rượu
cho những viên chỉ huy đi đầu, chuyền tay, những người lính ngửa cổ uống ngay.
Chắc bố con nhà nó cất giấu, chôn khá nhiều hầm rượu dưới chân nền đất Kinh thành từ bao đời, thảo nào anh tôi và
các bạn, thầy dạy hay đến đó uống rượu, mê mẩn men say, mê chuyện thơ phú của
bố nó, mê con gái nhà rượu xinh tươi khéo chiều khách tình thơ.
Tiếng reo hò
vang lên sung sướng. Thông thường, niềm
vui hội hè, thoả mãn chiến công, rượu say, tình say là ca lớn hát to, hô khoẻ.
Quân dân Kinh thành xứng đáng với những niềm vui, với nhiều vò rượu như của bố
con nhà kia. Họ đã làm nên chiến thắng, tự giải phóng Kinh thành, giải phóng
quê hương, đất nước thoát khỏi thảm họa nô dịch và đồng hoá của đội quân xâm
lược hung hãn nhất thời đại.
Tiếng hát vang
lên từ góc phố, giai điệu quen quen mà một lần tôi nghe một nhóm quân ta hát
bên thượng nguồn sông Hồng những ngày chiến tranh:
Tiếng hát lan xa
lúc sôi nổi, lúc thì thầm, ai cũng mong về nhà, về với người thân yêu về với
dấu xưa Kinh thành, với công việc làm ăn, hạnh phúc.
Em có đón ai trở
về? đã yêu ai chưa? Tôi thầm hỏi, trông em tươi tắn thế kia thì mất gì trong
chiến tranh! Ôi bóng dáng Kinh thành là em chứ không phải là tôi. Tôi nghĩ, sẽ
đến thăm em đễ rõ hơn vẻ kiêu sa, vô tư đến kỳ lạ. Một tính cách, tình cảm của
người dân Kinh thành chúng ta.
Một đoạn nữa,
tôi thấy đám người tóc dài rũ rượi, trông như ma đói. Cố nhớ, thì ra đó là
những cái bang ở lại. Không hiểu họ làm gì và sống như thế nào trong những ngày
Kinh thành bị chiếm đóng, chắc chúng không theo giặc nên ở lại, và gầy guộc ma
dại thế kia chắc phải sống lẩn lút mấy năm khổ ải lắm. Sao vậy? Kinh thành ta
vẫn có người trông coi, có thể họ ngụ trong những ngôi chùa cổ, am miếu thiêng
để hương khói trông coi phần hồn nhà Phật, và cũng để trốn giặc.Tín ngưỡng của
giặc cùng phương Đông có lẽ không dám sát hại người thiền ẩn chùa chiền!
Xe dừng bên hồ
lớn. Chỉ có mặt hồ rộng còn nguyên dấu vết Kinh thành. Buổi trưa nay mát mẻ,
sóng nhẹ lăn, một màu xanh như cánh đồng bát ngát xa xa yên bình, hứa hẹn mùa
vàng no ấm.Tôi để mắt sâu vào khoảng không trời mây, sóng nước như cố hớp lấy
hồn thiêng sông núi soi bóng. Một đàn chim từ xa bay xuống nước bơi lội sau đó
lại tung cánh bay lên, lại xuống. Những cánh chim trời đã thoát nạn binh đao
nay trở về hồ nước nơi chúng sinh sống hồn nhiên như trẻ thơ.
Một toán quân
xuống hồ tắm, họ vùng vẫy như muốn gột rửa bụi chiến chinh, và họ hát những bài
ca vui vẻ "Anh về với em đây, hồ xanh mây trắng bay, ngày mai anh đưa em
lên thuyền bơi,... Ta vui chơi thần tiên, vui chơi. Từ hồ này ra đi muôn nơi...
Anh về đây với em,...." Họ hát làm tôi vui lây. Những người lính sống chết
vô tư quá, họ (cố quên) hết tàn tro xương máu chiến trận, họ mong về với em
yêu, về cảnh đẹp cuộc sống quê hương. Đời cha ông họ cũng thế, họ quá biết mất
mát đau thương,...và hiểu rằng phải vô tư mới sống tiếp những ngày phía
trước... Sao tôi nhiều lúc buồn u uất thế này. Lại tự bực mình.
Kinh thành đổ
nát, vua và bố tôi chủ trương không ăn mừng quá lớn, kéo dài nhiều ngày, mà
chia các đội quân giúp dân dựng nhà, tạm yên ổn làm ăn, khôi phục những việc
cấp bách nhất như lập chợ, cho trẻ đi học, thu dọn tàn tích bẩn thỉu giặc để
lại đem đốt và chôn lấp; cho quân về thôn trang mua, vay thóc của dân để bán
rẻ, bán chịu, phân phát cho quân dân ở Kinh thành... Trật tự được vãn hồi hơn trước;
trộm đạo, rượu chè, cờ bạc, tranh gái phố Kiều thổ,...im re. Phải chăng sau đau
thương quá lớn, chúng thức tỉnh lương thiện?
Những người lính
ngắm Kinh thành lần cuối rồi xuôi sông hồi hương, họ bình lặng ra đi, họ lặng
lẽ trở về, họ "đi bẩy về ba" về không đầy đủ. Những làng quê đón họ,
nơi ấy cũng tàn tro chinh chiến, ruộng đồng hoang phế, cần sức trẻ hồi sinh.
Đêm Kinh thành
đầu tiên của ngày hoà bình trở lại. Chỉ có gió thanh cao, gió mùa thu vẫn dịu
êm như không hề biết những gì tàn khốc đã xẩy ra. Gió, mây, sông nước đỏ kia đã
thổi, tẩy rửa, đẩy trôi tất cả khổ đau
và... niềm vui. Tôi cùng gia nhân dạo trên một đoạn phố Kinh thành, một vài
quán rượu đã mở hàng, thưa thớt bóng người. Vài tốp lính say rượu nghêu ngao
hát, họ uống chia tay tình bạn thời chinh chiến, chia tay Kinh thành mà họ đã
chiến đấu, hy sinh cho ngày giải phóng,...để mai xuống thuyền, mỗi người một
phương.
Tôi nhận ra mấy
chàng khoá cùng học với anh tôi, họ già dặn một chút, mặt xạm đen cứng cáp, đàn
ông hơn, chẳng biết bao giờ thi cử để họ lại giành giật khoa bảng đi tiếp đời
quan trường sau những năm tháng chiến trường. Lòng dũng cảm, anh hùng ca của
họ, niềm kiêu hãnh, chất lãng tử có thêm chút công minh trong nghiệp quan nha?
Đêm, tôi ngủ
muộn, tiếng mèo hoang khóc lóc reo rắt oan khuất đến ma quái khiến tôi khó
chịu, bắt mấy gia nhân đuổi chúng đi xa cho tôi ngủ với giấc mơ yên bình.
Buổi khai trương
chợ Kinh thành, tôi có dịp thăm. Ôi chợ toàn hoa, trên trời dưới chợ là hoa,
nhiều hoa quá, có lẽ những năm qua các vườn hoa không người chăm sóc vẫn cứ nở
tàn, tàn nở với tình yêu Kinh thành, vẫn chờ đợi người về. Những bông hoa lớn
tự nhiên ngộ quá, bông hồng cao ngang mặt cô gái hàng hoa, kiêu quá, hoa loa
miệng toe toe bài ca chiến thắng, chùm hoa tím thuỷ chung, và... hoa huệ nữa.
Tôi nhẹ người, nâng nâng niềm vui, hít thở trong chợ hoa, rồi qua chợ cá tôm
rau tươi, nhiều lắm. Chỉ có cá- rau- hoa có sức sống khi không có tay người
chăm, nó sống để giành cho người vào những lúc niềm vui và khó khăn này đây.
Nhìn dân chài
hàng cá lại nhớ tuổi thơ anh, nhớ ngày định mệnh của em với bông lục bình tím ở
Bến Mơ. Tôi vội quay lại hàng hoa chọn mua nhiều hoa tươi thắm...Em sẽ thắp
hương cho anh bên hoa tím thuỷ chung, và cả hoa huệ cho đồng đội anh. Nhớ em,
các anh về, em sẽ xin đại tướng làm lễ cầu vong hồn các anh trận thuỷ chiến
trên sông Giông Tố năm kia.
30 LỄ CẦU HỒN BẾN MƠ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét