Trong lâu đài,
tôi sống bằng trí nhớ, bằng kỷ niệm. Chuyện của người làm quan miền ngược là
bạn của bố tôi, người đã cứu tôi ở quán Kiều thổ Kinh thành năm xưa đã hiện
lên.
Bố làm to, nhà
nhiều khách tôi không nhớ hết, được gặp tôi chào, nghe ai hỏi, tôi trả lời rồi
xin phép lui. Nhiều người thích chuyện, ngắm, ướm hỏi tôi làm vợ cho con trai, cháu chắt họ. Nghe loáng thoáng chuyện
ấy, tôi cười vì thấy mình còn nhỏ quá, thấy họ thích uy quyền của bố tôi chứ
Kinh thành chán vạn đứa đẹp xinh như cô gái con nhà rượu chân dài, trẻo miệng.
Sau dẹp loạn Kinh thành, ghen với con nhà rượu tôi càng ý thức được quyền uy
con quan, lại xinh đẹp, học vài chữ ngông nghênh, nghịch ngợm thì khối đứa
"chết thèm". Quan trọng nhất là xinh, duyên thì là con ai cũng được, con hoang cũng chẳng
sao. Con gái nhà rượu đã mách bảo tôi điều đó. Tôi vẫn ghen với nó.
Sau chiến tranh,
tôi cũng hết học luôn, con gái thời ấy không vào chiếu thi với bọn sỹ tử Kinh
thành, chỉ học mấy thầy cho biết đọc, học mấy bà cho biết lễ giáo, bổn phận đàn
bà, con gái. Tôi tức lắm mà không làm gì được. Bố tôi thương tôi "ăn
theo" chinh chiến chẳng công lao gì!. Trẻ con ấy mà. Tôi tầm sách, tầm sư,
cuối cùng thì bố tôi đành chiều tôi bằng cách gọi thầy giỏi đến nhà "gia
sư" những môn tôi thích học như lịch sử, văn thơ, tướng pháp linh tinh.
Học mà không thi làm quan thì học làm gì, tôi vẫn thích học vì không học thì
biết làm gì hơn, chơi mãi cũng chán, thôi thì học cho biết, mai này dạy trẻ
con. Tôi cũng gom mấy đứa con quan trong triều dưới 10 tuổi dạy chúng những bài
học mà ở tuổi chúng tôi đã học.
Bọn sỹ tử bạn
học với anh tôi, sau chinh chiến đã nên người, nhà vua mở khoa thi, cho đỗ hết
rồi bổ đi làm quan. Họ thành danh có
ích, hiền tài nguyên khí tỏa bốn phương, chỉ anh tôi và những người hy sinh là
hết, gia đình cũng hết nhờ. Tôi thù ghét chiến tranh.
Đất nước hòa
bình có bao việc phải làm, nhưng giặc vẫn chưa yên, chúng quấy nhiễu biên giới,
hải đảo, quan quân lại chia nhau trấn ải để an dân. Giặc không kéo sang đàn
đống mà đưa bọn gian tặc sang dọa nạt, mua chuộc dân vùng cao biên giới, kích
động họ đòi ly khai Triều đình, không chấp nhận các quan của Triều đình bổ
nhiệm nơi đó.
Người đàn ông
trấn ải biên giới đã gắng sức bám dân, giữ yên bờ cõi. Ông về báo cáo triều
đình, chuyện với bố tôi tại nhà, hôm đó tôi được bố cho hầu rượu nên nghe được
câu chuyện như sau:
"Từ ngày
được bổ làm quan trấn ải biên giới đến nay đã 30 năm, tôi lấy vợ sinh cơ lập
nghiệp với bà con dân tộc, làm bổn phận vua giao, bảo vệ biên cương, chăm lo
đời sống nhân dân. Nước mình nghèo, cái gì cũng thiếu, bà con dân tộc lạc hậu
lắm, nhiều vùng còn ăn sống sượng. Bắt được thỏ, nướng cả con cho vào cối giã
nhừ, đổ nước vào gọi cả bản cùng xơi, có vùng ven suối quanh năm ăn ốc, vì dễ
bắt, nhiều tập tục tốn kém, thiên tai, mất mùa, đói rét, cả vùng rộng bằng mười
Kinh thành ta may có một người bập bẹ vài chữ phổ thông.
Giặc bên ngoài
cho người sang dụ dẫn lắm trò nguy hiểm, chúng bán, cho mấy đồ kim chỉ, dầu
muối, chúng cho dân ta hạt anh túc bảo cách trồng rồi thu mua thuốc phiện,
chúng móc nối với bọn tội phạm dưới xuôi, bọn trốn án hình lên làm thổ phỉ đi
cướp bóc. Tôi đã cố gắng đi các vùng, gặp già làng, trưởng bản lắng nghe ý kiến
thì được biết là bà con các dân tộc chỉ mong ấm no, tự do hạnh phúc, mong được
hưởng một vài điều kiện sống như dưới xuôi: Trẻ em đi học, trao đổi thuận lợi lâm nông sản lấy đồ vải muối dầu đèn, nông cụ,
có hồ dẫn nước đến ruộng nương, lúc đói được cấp gạo...
Tôi báo cáo với
triều đình, ông đã đọc. Tôi nhận thấy ước muốn đó là chính đáng, tuy nhiên cần
sức người, sức của không nhỏ. Quan trọng nhất là có người xuôi lên giúp đỡ,
chung sống với bà con. Tôi cũng đề nghị vua một kế hoạch hỗ trợ dân miền cao với chi phí tiền của trực tiếp cho đồng
bào, chi gián tiếp đãi ngộ lương bổng phương tiện vật chất cho người tình
nguyện đi biên giới và đã được chuẩn y thực hiện hơn năm nay.
Mọi việc tưởng
yên, nào ngờ số anh em lên miền cao đa phần đã có vợ con, họ muốn cải thiện thu
nhập bằng tình nguyện, muốn tròn vo thời hạn rồi trở về. Họ khác với thời trẻ
tôi đi biên giới sống với dân, được dân yêu, dân cưới cho vợ đẹp và tôi sẽ sống
mãi nơi đấy.
- Đất nhà, nàng
hầu thiếu gì, chỉ sợ các vị buồn không muốn lên sống ở đó. Tôi nói tiếp nhé,
ông uống đi, cháu nó mời kìa:
Anh em đến chỉ ở
nhà chức dịch, xây thêm một vài nhà công, tuyển người hầu rồi vẫn theo lối làm
việc sáng dậy chiều nghỉ, trong ngày thì cưỡi ngựa đi vài nhà dân, thuận vui
đâu lại nhậu nhẹt, tầm mua lâm sản quý hiếm, rồi xuất hiện cả hàng quán, nhà
thổ ở vùng cao, có chết tôi không?
Một số anh em
làm việc tốt, nhất là mấy hương sư dậy trẻ. Số anh em khác còn lại gọi dân tới
phổ biến ý chỉ vua mà diễn đạt, dịch thuật kiểu gì mà dân ngơ ngác không hiểu,
đồ trợ cấp của vua ban thì họ phát theo danh sách chức dịch địa phương, không
đều, không đến đúng đối tượng. Gần mà xa dân, cần bám dân thì bắt dân bám mình.
Nhân vài chuyện nhỏ như quan hệ trai xuôi với gái ngược, bọn xấu được thể tung
tin thất thiệt nào là sẽ mất đất, mất giống, mất tiếng nói…rất nguy hiểm. Giặc
cũng tranh thủ mua chuộc dân chúng bằng cách cấp tiền giả, thật, mua giá cao
những nông sản quý hiếm, hứa hẹn người ra nước ngoài rồi về làm kẻ tung tin nói
xấu chúng ta.
Tôi chấn chỉnh
nhiều lần các nhóm anh em lên làm việc xong không hiệu quả. Tôi chỉ rõ cái sai
lớn nhất của anh em là không bám dân, không cùng chung sống, ăn ở, làm việc,
học tiếng của dân thì khó gần dân.
Một buổi sáng tôi đến phủ thì người lính chạy cấp
báo rằng dân đã đứng đầy bãi cỏ trước phủ đòi quan phủ ra nói chuyện, đề đạt
yêu sách, nếu không sẽ phá phủ trong sáng nay. Tôi lên tháp canh nhìn ra bãi
trống thấy rừng người khí thế,
chiêng trống khua từng chặp, bọn cưỡi
ngựa có hung khí, cả trâu bò và voi nhà cũng đến. Một tình thế nguy cấp. Viên
phó và mấy thuộc cấp run bắn người, nhắc tôi theo lối mòn chuồn. Tôi tuốt gươm
chỉ mặt:
Không ai nói gì,
nhưng thấy họ bớt run. Những ngày yên ổn bọn họ chỉ mưu phì gia, mua rẻ bán
đắt, ăn chơi chán ngược rồi về xuôi, được cái họ vẫn trụ cùng tôi.
- Theo phương án
đã định, tất cả các ông vào vị trí, tuyệt đối không manh động, không sát hại
dân. Chú ý những thằng có hung khí, đứa nào dùng giáo mác, kiếm phá phách phải trừng trị, còn chúng dùng tên nỏ phải
đề phòng. Tôi ra lệnh. Bọn họ vào vị trí. Tôi nói riêng với viên chỉ huy vũ
trang.
Tiếng chiêng nổi
lên, tiếng hò la như chiến trận. Tôi cử người ra gặp thủ lĩnh nói với họ bảo
dân về và mời đại diện các già làng, chức dịch các bản vào phủ nói chuyện với
bảo đảm không xung đột. Người này vào tâu, họ không nghe, đòi quan phủ ra bãi
cỏ. Tôi không thể từ chối, không thể khác trước tình huống này và chấp nhận cái
chết nếu như may mắn chối từ. Tôi quyết định phương án cuối cùng và cho người
ra nói với thủ lĩnh của họ như thế.
Tôi đứng trong
cũi rộng, ken gỗ tre khá chắc, đội lính đi xung quanh, mấy người khênh tôi ra
bãi cỏ trong sự ngỡ ngàng của dân chúng, tiếng chiêng, tiếng ngựa vang lên rồi
im lặng. Cũi kiệu dừng, hàng loạt mũi tên vun vút cắm vào cũi, uy hiếp tôi.
Thấy tiếng cười của thủ lĩnh, tôi yên tâm, không ngờ lại hàng loạt mũi lao phóng tới nhưng đuối tầm,
một số cắm vào nhưng tôi bình an.
Thủ lĩnh cưỡi
ngựa đến bên tôi ra dấu chào, tôi đáp lại. Ông ta nói tôi mở cũi ra, cho ông
lên đứng cùng để chuyện với bà con. Những người lính mở cũi, tôi đỡ người thủ
lĩnh lên lễ đài trong tiếng reo hò vui vẻ của dân chúng. Những người lính vẫn
đứng nghiêm làm phận sự.
Buối sáng đó,
tôi và thủ lĩnh dân tộc nói chuyện nghiêm túc, công khai trước dân, nhất trí
các thỏa thuận và lời hứa. Tôi nói:
- Đất nước của
chúng ta, đất của bà con, bà con giữ đất mình ở là giữ hòa bình cho Tổ quốc.
Nhân dân cả nước vì bà con, giúp đỡ bà con lúc khó khăn, bà con làm ăn trao đổi
với miền xuôi, với bên ngoài cùng có lợi, không kẻ nào được bắt nạt, ăn hiếp bà
con, lừa dối dụ dỗ, mua chuộc bà con phá hoại đất nước, chia rẽ miền núi với
miền xuôi. Tôi sống với bà con suốt đời. Trong tháng này tôi bảo đảm mời đại
diện chức dịch, gìa làng, chị em về gặp vua chuyện trò thân mật.
Ngay bây giờ
những bà con không có trâu bò, ngựa sẽ được cấp vốn để chăn nuôi gia súc, mọi
người được cấp giống cây trồng mới dễ trồng, dễ chăm sóc, khi thu hoạch chúng
tôi sẽ mua hết với giá có lợi hơn các cây khác. Bà con trồng rừng xanh, bảo vệ
rừng được cấp đủ gạo, muối, dầu thắp, áo quần..
Tôi lệnh cho
người của phủ làm đúng như đã hứa với dân. Dân vui vẻ đánh trâu bò, ngựa voi về
bản. Một buổi sáng đầy thử thách đã qua. Với dân chỉ có tình thương mới chung
sống được với nhau, dân cho ta tình yêu khi ta bám vào cuộc sống hàng ngày của
họ, giúp họ lúc khó khăn, dạy họ điều hay lẽ phải
Sau ngày đó, tôi
sàng lọc lại số anh em ở xuôi lên, yêu cầu họ bám dân, vận động dân, giúp dân
cái mình biết là hay. Ai thấy khó khăn thì về, tôi rất chú ý số anh em trẻ chưa
vợ con. Họ vô tư, họ cần tình yêu trai gái, họ mến nhau là sống tốt với nhau,
được rất nhiều việc"
Tôi giật mình,
nếu anh tôi còn chắc chắn anh sẽ ở danh sách đầu đi biên ải bám dân, và anh có
thể như viên quan phủ đang uống rượu, thì số phận tôi sẽ ra sao? Có lẽ theo
anh.
37. CÔ TẤM VỀ ĐÂU?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét